Thạch động thôn vân (chữ Hán: 石洞吞雲), có nghĩa động đá nuốt mây, là tên hai bài thơ của Mạc Thiên Tứ; một bằng chữ Hán được xếp trong tập Hà Tiên thập vịnh được khắc in năm 1737; một bằng chữ Nôm được xếp trong tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh [1]. Cả hai bài đều mô tả cảnh đẹp của núi Thạch Động, một trong mười thắng cảnh của đất Hà Tiên (Việt Nam) xưa.

Thạch Động còn được gọi là Vân Sơn, là một ngọn núi nhỏ nằm ở xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Đây là một khối đá vôi Pecmi sót khổng lồ, đứng sừng sững trên một đồi cát kết Đêvôn-cacbon sớm (cao 10 m), ở ngay ven đường Hà Tiên đi Campuchia.

Từ trung tâm thị xã Hà Tiên theo con đường nhựa đi về hướng biên giới Tây Nam, khoảng 3 km sẽ gặp núi Thạch Động nằm cạnh bên đường, với nhiều cỏ dại và cây xanh. Leo hết những bậc thang là một hang cao và rộng, có nhiều thạch nhũ với những hình thù lạ mắt. Ở đó còn có một ngách hang ăn sâu xuống lòng đất, khiến không biết từ bao giờ ngách hang sâu này cùng với những vân đá tượng hình cô gái lờ mờ trên vách đứng, đã hình thành nên câu chuyện cổ tích Thạch Sanh chém chằn. Ngoài ra, trong hang còn có chùa cổ Tiên Sơn. Tương truyền trước khi có chùa, đây là am tu của đạo sĩ Huỳnh Phong Chơn Nhơn (sau tu theo Phật, nên đổi hiệu là Huỳnh Phong Hoà thượng), dưới thời Mạc Cửu. Nhờ hai cửa hang ở trên cao (cửa phía Đông và cửa phía Tây), nên trong hang lúc nào cũng thoáng mát, và cũng nhờ nó mà người viếng cảnh nhìn thấy toàn cảnh thôn Vân, cửa khẩu Xà Xía, và mũi Nai ở phía xa...

Danh thắng Thạch Động đã được Mạc Thiên Tứ miêu tả bằng hai bài thơ, một bài chữ Hán và một bài chữ Nôm. Bài Thạch động thôn vân bằng Quốc âm có đến 32 câu ngâm song thất lục bát, và được kết bằng một bài thơ bát cú như sau:
Quỷ trổ thần xoi nổi một toà,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia.
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống rỗng bốn bề thâu thế giới,
Chang bang một dãy chứa yên hà.
Chân trời mới biết kho trời đấy,
Cân cái hèn chi rỡ ỷ, la. [2]
Đây là cảnh thứ năm trong Hà Tiên thập cảnh. Bốn đề tài trước gần thực tế, đến đề tài này thì khác hẳn. Thi sĩ Đông Hồ có lời bình: “Thơ này mượn cảnh nhân gian mà tả cảnh thần tiên. Nhân Thạch động là một cảnh động đá thiên nhiên, khói mây quanh quất, có thạch nhữ, nước ngọt suối trong khiến liên tưởng đến Đào Nguyên, Thiên Thai, mà so sánh với Động Đình, Nhạc Dương, toàn là cảnh thần tiên diễm ảo. Vì thế nên tứ thơ phiếu diễu mông lung, nửa hư, nửa thực; nửa chân nửa mộng; lời thơ cũng vì thế mà hoá ra huyền diệu mơ màng; khiến người đọc không nhận thấy đường nét sáng sủa phân minh, mà như lạc mình vào cõi mây phong khói toả.” [3]

Bùi Thuỵ Đào Nguyên

Chú thích
1. Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh có sau Hà Tiên thập vịnh (1737), và tập thơ này chưa được khắc in. Bản hiện nay do thi sĩ Đông Hồ sưu tập được.
2. Xem toàn bài thơ Nôm này trong Văn học Hà Tiên, tr. 218-219.
3. Đông Hồ, Văn học Hà Tiên, Nxb Văn Nghệ TP. HCM, 1999, tr. 224.