Thơ » Trung Quốc » Tam Quốc » Thái Diễm
Đăng bởi Vanachi vào 18/12/2006 06:46
我非貪生而惡死,
不能捐身兮心有以。
生仍冀得兮歸桑梓,
死當埋骨兮長已矣。
日居月諸兮在戎壘,
胡人寵我兮有二子。
鞠之育之兮不羞恥,
愍之念之兮生長邊鄙。
十有一拍兮因該起,
哀響纏綿兮徹心髓。
(以上十一拍,寫並非貪生怕死而是希望能歸故鄉,以及為了兩個孩子)
Ngã phi tham sinh nhi ố tử,
Bất năng quyên thân hề tâm hữu dĩ
Sinh nhưng kí đắc hề quy tang tử,
Tử đương mai cốt hề trường dĩ hỉ
Nhật cư nguyệt chư hề tại Nhung lũy,
Hồ nhân sủng ngã hề hữu nhị tử
Cúc chi dục chi hề bất tu sỉ,
Mẫn chi niệm chi hề sinh trường biên bỉ
Thập hữu nhất phách hề nhân cai khởi,
Ai hưởng triền miên hề triệt tâm tủy.
(dĩ thượng thập nhất phách, tả tịnh phi tham sinh phạ tử, nhi thị hy vọng năng quy cố hương, dĩ cập vị liễu lưỡng cá hài tử)
Tôi không ham sống nhưng ghét chết,
Không thể quyên sinh được
Sống, rất muốn trở về cố hương;
Chết, vùi thây ở đây cũng tốt thôi
Ngày đêm sống tại đồn lũy xứ Nhung,
Người Hồ (chồng) luyến ái tôi có hai con
Cực khổ nuôi nấng không sợ xấu hổ,
Thương nhiều tuy sống nơi biên cương hẻo lánh
Nên phách đàn 11 nẩy sinh,
Nỗi buồn triền miên vọng lại thấu tâm can.
(phách 11 trên tả việc không tham sống sợ chết và có hy vọng trở về cố hương, cũng đề cập đến hai con)
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 18/12/2006 06:46
Không phải kẻ ham đời sợ chết
Nhưng cũng không mỏi mệt quyên sinh
Sống mong về lại cố hương
Chết xin vùi dập biên cương xác tàn
Ngày đêm chốn quan san đồn luỹ
Người Hồ thương sinh được hai con
Thương con xấu hổ không còn
Ngày đêm cố gắng nuôi con nên người
Triền miên đau khổ một đời
Phách mười một đến như lời thương thân.
(phách 11 trên tả việc không tham sống sợ chết và có hy vọng trở về cố hương, cũng đề cập đến hai con)