Quần sơn vạn hác phó Kinh môn
Sinh trưởng Minh phi thượng hữu thôn
Nhất khứ tử đài liên sóc mạc
Độc lưu thanh trủng hướng hoàng hôn
Hoạ đồ tỉnh thức xanh phong diện
Hoàn bội không qui nguyệt dạ hồn
Thiên tải tỳ bà tác hồ ngữ
Phân minh oán hận khúc trung luân
(Đỗ Phủ)


Trước lầu từ lúc biệt quân vương
Tuyết phủ rừng phong giá rãi đường
Đau đớn nàng nhìn lên cõi Bắc
Lạnh lùng trời đất nhuốm thê lương

Chiều tối nàng đi đến Thạch Tuyền
Chợt nhìn lên đá núi Yên Nhiên
Muôn nghìn tượng đá hình dung lạ
Đột ngột trong sương hung dữ nhìn

Kinh hoàng nàng tưởng giặc Hung Nô
Lệ ngọc hai hàng rỏ tợ mưa
Tuyết phủ đầy đường quân chẳng tiến
Hai ven bờ suối lặng như tờ

Trên tuyết trăng lên lạnh lẽo xanh
Vời trông muôn dặm dấu đô thành
Mịt mùng trong bóng trăng thu lạnh
Chỉ thấy muôn trùng tuyết trắng xanh

Quân sỹ dừng chân dưới núi cao
Nghe chim trên núi động rì rào
Hãi hùng những sợ quân Hồ đến
Vội vã bên mình rút kiếm đao!

Trong tối âm thầm lại cứ đi
Nửa đêm vừa đến gác Vân Trì
Mây che ảm đạm giời đen tối
Dế khóc thêm buồn nỗi biệt ly

Chiêu Quân lên gác ngắm trăng tàn
Nhìn đám mây trời vẽ hợp tan
Sực nhớ đêm nào trong điện ngọc
Sum vầy trong một giấc vu san

Tay tiêu thánh thót tiếng tơ huyền
Văng vẳng chuông vàng khánh ngọc chen
Khi nhẹ mơ màng mây khói toả
Khi sầu ủ dột tiếng chim quyên

Tiếng đàn như nhắc khoảng đời xưa
Cung cấm thanh nhàn buổi sớm trưa
Muôn tía nghìn hồng đua vẻ đẹp
Cung tần mỹ nữ nhởn nhơ đùa

Bỗng động biên ngoài dấu lửa binh
Bụi hồng tán loạn chốn đô thành
Quân vương thổn thức lòng lo sợ
Hồn mộng ra ngoài cõi chiến tranh

Ba quân thất thế lúc đông sang
Đất Hán chưa hề giãi tuyết sương
Máu nóng nhuốm hồng đồng cát trắng
Hình hài đem giả nợ Quân vương

Trường thành chồng chất đống xương khô
Ngựa báo phi về chốn cố đô
Cung điện ngậm ngùi sầu chiến sỹ
Quân vương thổn thức lệ chan hoà

Sinh kế hoà Phiên há bởi ai!
Sinh ly tử biệt vốn cơ giời
Mang đàn thất vọng sang miền bắc
Đặng cứu quân tàn chốn ải khơi!

Chỉ sợ Quân vương ở cấm cung
Trông mây thêm bận nỗi đau lòng
Nàng ngoài ải nhạn đà cam phận
Lạnh lẽo thân tàn với gió đông!


Bài thơ của Đỗ Phủ mà thi sĩ Thái Can đã dẫn có nhan đề Vịnh hoài cổ tích. Xin xem phần dịch nghĩa và dịch thơ trong phần thơ Đỗ Phủ.

Chiêu Quân: Vương Chiêu Quân 王昭君 còn gọi là Minh Phi 明妃 hay Minh Quân 明君 tên thật là Vương Tường 王嬙, nhũ danh Hạo Nguyệt 皓月, tự Chiêu Quân, là người đẹp được tôn vinh là một trong Tứ đại mỹ nhân trong lịch sử Trung Quốc, cùng với ba người kia là Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi. Nàng là người làng Tỷ Quy, huyện Nam Quận, nay là huyện Quỳ Châu, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Theo Hán thư, nàng nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế từ năm 15 tuổi với thân phận là một gia nhân tử, tức hàng phi tần vô danh không có tước hiệu trong chế độ nhà Hán. Thời đó Hung Nô rất mạnh, thường xuyên quấy nhiễu trung nguyên, nhà Hán hằng năm vẫn phải cống vàng bạc, vải lụa, mỹ nhân, trâu ngựa theo sách lược hoà thân từ thời Lưu Bang. Năm 33 TCN, thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà 呼韓邪 đến kinh đô Trường An để thần phục nhà Hán, đề nghị được trở thành con rể của Nguyên Đế. Hoàng đế thuận theo, ban cho cho 5 cung nhân trong hậu cung, và một trong số ấy là Vương Chiêu Quân. Sau khi làm vợ chúa Hung Nô, nàng được phong hiệu Ninh Hồ yên chi 寧胡阏氏, sinh được một con trai. Nàng mang trọng trách làm cầu nối giữa nhà Hán và Hung Nô thời đó. Đến đời Tấn, Tấn Vũ Để để tránh phạm huý cha mình là Tư Mã Chiêu, cho đổi gọi tên nàng là Minh Quân hay Minh Phi.

Theo một giai thoại chép trong Tây Kinh tạp ký 西京雜記 được lưu truyền từ cuối đời Hán rằng do số phi tần của Hán Nguyên Đế quá đông, nên hoàng đế lệnh hoạ sư vẽ lại chân dung để dựa vào nhan sắc mà sẽ triệu hạnh. Các cung phi thường lo lót tiền cho hoạ công Mao Diên Thọ 毛延壽 để được vẽ cho đẹp, chỉ Vương Tường không đút lót nên chân dung không đến được hoàng đế. Khi Hung Nô đến chầu, xin mỹ nhân để làm yên chi, Nguyên Đế chọn trong số chân dung, thấy Chiêu Quân tầm thường, nên chọn để phái đi Hung Nô. Trước nàng diện kiến, thấy dung mạo không ai bì kịp, Nguyên Đế hối hận nhưng chuyện đã định nên không thể thay đổi, sai chém Mao Diên Thọ cùng các hoạ công khác. Một dị bản của giai thoại này là Chiêu Quân tự vẽ chân dung mình, nhưng bức tranh đó trước khi dâng lên vua bị Mao Diên Thọ điểm thêm nốt ruồi, thuật số thường gọi là tướng sát chồng.

Chiêu Quân trên đường tới Hung Nô, khi tới biên cương là một nơi hoang mạc rộng lớn, nàng ngồi trên ngựa buồn u uất mà cầm một cây tỳ bà đàn một khúc gọi là Xuất tái khúc 出塞曲 và làm một số bái thơ ai oán, trong đó có bài Chiêu Quân oán 昭君怨 được chép trong Nhạc phủ thi tập. Một con nhạn bay ngang qua nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất, nên nàng được tôn vinh là người có khả năng làm chim sa cá lặn (trầm ngư lạc nhạn 沉魚落雁). Do giai thoại này, Chiêu Quân xuất tái 昭君出塞 trở thành một đề tài sáng tác phổ biển của thi ca, nghệ thuật ngày trước. Truyện Kiều: “Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia”.

Năm 20 TCN, Hô Hàn Tà chết, nàng tiếp tục làm vợ của người con là thiền vu Phục Chu Luy 復株累 lên thay, theo tục của người Hung Nô, sinh thêm được hai con gái. Sử sách không chép về cái chết của nàng. Sách Thông điển đời Đường chép sau khi mất tại Hung Nô, nàng được chôn ở bờ nam sông Đại Hắc gần Hồi Hột, nay thuộc Nội Mông. Ở đây mặc dù mùa thu cây cỏ đều tàn úa nhưng mộ nàng vẫn quanh năm xanh tươi như ở trung nguyên, nên người ta gọi là “thanh trủng” 青塚 (nấm mồ xanh).

Tranh Chiêu Quân xuất tái (cục bộ) của Cung Tố Nhiên 宫素然 đời Nam Tống
Hình: Tranh Chiêu Quân xuất tái (cục bộ) của Cung Tố Nhiên 宫素然 đời Nam Tống



[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]