春閨

雙婀兩槳唱前溪,
百丈遊絲九陌西。
千里音書空憶雁,
半春情緒倦聞雞。
七囊錦字裁難寄,
六幅珠簾捲未齊。
二十四橋三五夜,
一聲八尺萬行啼。

 

Xuân khuê

Song a lưỡng tưởng xướng tiền khê,
Bách trượng du ti cửu mạch tê.
Thiên lý âm thư không ức nhạn,
Bán xuân tình tự quyện văn kê.
Thất nang cẩm tự tài nan ký,
Lục bức châu liêm quyển vị tề.
Nhị thập tứ kiều tam ngũ dạ,
Nhất thanh bát xích vạn hàng đề.

 

Dịch nghĩa

Đôi gái cắp đôi chèo đứng hát trước khe,
Trăm trượng tơ bay phấp phới trên không đều phát ra từ chín nẻo ở phương tây.
Trông nhạn trên không mang đến tin tức ngoài ngàn dặm,
Tình tự nửa chừng xuân đã mỏi mệt khi nghe tiếng gà gáy.
Khó gửi ý tứ vào chữ dệt thành gấm đựng trong bảy cái đãy,
Sáu tấm rèm châu cuốn lên chưa đều.
Khoảng canh ba, canh năm ở 24 cây cầu,
Một tiếng sáo cất lên thì có hàng vạn tiếng sáo cùng hoà theo.


Theo Quách Tấn (trong Hương vườn cũ), Tùng Thiện Vương nhân đọc tập Danh viên của nhà Thanh, thấy vua ra đề Xuân khuê cho các cử tử vào thi đình, đã hạn 5 vận “kê, tê, kê, tề, đề” lại bắt phải dùng vào bài thơ 18 chữ số nhất, nhị.... thập, bách, thiên, vạn, bán, lưỡng, xong, trương, xích. Ông bèn làm bài này để so tài cùng người Trung Hoa.

Bài thơ này được Hà Trì Trần Đình Tân 陳廷賓 (1893-1979) hoạ lại.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Quách Tấn

Khe trong liễu lục phủ đôi bờ,
Chín khúc đường quanh trăm trượng tơ.
Tình tự nửa song gà thổn thức,
Âm thư nghìn dặm nhạn thờ ơ.
Bảy từ chũ gấm phong im ỉm,
Sáu bức rèm châu thả lững lờ.
Hăm bốn nhịp cầu canh khắc lụn,
Địch dài một tiếng lệ tuôn mưa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tùng Thiện Vương

Tiền khê đôi gái cắp chèo loan,
Trăm trượng đường tơ chín nẻo lần.
Tin nhạn luống trông nghìn dặm liễu,
Canh gà nghe chán nửa tình xuân.
Bảy lần chữ gấm gay trao gởi,
Sáu bức rèm châu cuốn chửa cân.
Hăm bốn cầu Ngô rằm nguyệt rạng,
Thổi tiêu một tiếng vạn hàng rân.


Bản dịch của chính tác giả.
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời