Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu

Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/11/2018 12:57

次韻孔毅甫久旱已而甚雨其一

飢人忽夢飯甑溢,
夢中一飽百憂失。
只知夢飽本來空,
未悟真飢定何物。
我生無田食破硯,
爾來硯枯磨不出。
去年太歲空在酉,
傍舍壺漿不容乞。
今年旱勢復如此,
歲晚何以黔吾突。
青天蕩蕩呼不聞,
況欲稽首號泥佛。
甕中蜥蜴尤可笑,
跂跂脈脈何等秩。
陰陽有時雨有數,
民是天民天自卹。
我雖窮苦不如人,
要亦自是民之一。
形容可似喪家狗,
未肯聑耳爭投骨。
倒冠落幘謝朋友,
獨與蚊雷共圭蓽。
故人嗔我不開門,
君視我門誰肯屈。
可憐明月如潑水,
夜半清光翻我室。
風從南來非雨候,
且為疲人洗蒸鬱。
褰裳一和快哉謠,
未暇飢寒念明日。

 

Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 1

Cơ nhân hốt mộng phạn tắng dật,
Mộng trung nhất bão bách ưu thất.
Chỉ tri mộng phạn bản lai không,
Vị ngộ chân cơ thị hà vật.
Ngã sinh vô điền thực phá nghiễn,
Nhĩ lai nghiễn khô ma bất xuất.
Khứ niên thái tuế không tại dậu,
Bàng xá hồ tương bất dụng khất.
Kim niên hạn tuế phục như thử,
Tuế vãn hà dĩ kiềm ngô đột.
Thanh thiên đãng đãng hô bất văn,
Huống dục khê thủ hào nê Phật.
Úng trung tích dịch vưu khả tiếu,
Kỳ kỳ mạch mạch hà đẳng trật.
Âm dương hữu thì vũ hữu số,
Dân thị thiên dân thiên tự tuất.
Ngã tuy cùng khổ bất như nhân,
Yếu diệc tự thị dân chi nhất.
Hình dung tuy thị táng gia cẩu,
Vị khẳng nhị nhĩ tranh đầu cốt.
Đảo quán lạc trách tạ bằng hữu,
Độc dữ văn lôi cọng khuê tất.
Cố nhân sân ngã bất khai môn,
Quân thị ngã môn thuỳ khẳng khuất.
Khả liên minh nguyệt như bát thuỷ,
Dạ bán thanh quang phiên ngã thất.
Phong tùng nam lai phi vũ hầu,
Thả vị bì nhân tẩy chưng uất.
Khiên thường nhất hoạ khoái tai dao,
Vị hạ cơ hàn niệm minh nhật.

 

Dịch nghĩa

Người đói bỗng nằm mộng thấy bát cơm đầy,
Một bữa no trong cơn mộng mà một trăm nỗi ưu phiền tiêu tất cả.
Chỉ biết rằng cái no trong mộng bản lai là không,
Chứ chưa tỏ ngộ được cái đói thực sự là cái gì.
Tôi sinh ra không có ruộng, kiếm ăn bằng nghiên mực mẻ,
Từ lâu nghiên mực đã khô, mài không ra.
Năm ngoái sao Thái tuế nằm trơ tại dậu,
Nhà bên cạnh, một lọ tương cũng không chịu xin.
Mà năm nay, cái thế hạn lại như vậy,
Cuối năm, lấy gì nấu cho đen ống khói nhà tôi?
Trời xanh vòi vọi, kêu không thấu,
Còn lại muốn cúi đầu réo Phật đất nữa ư?
Con thằn lằn trong vò lại đáng nực cười,
Bò tới bò lui lịch kịch, chẳng ra đầu đuôi gì cả.
Âm dương có thời, mưa gió có số,
Dân là dân của trời, trời phải thương.
Tôi tuy cùng khổ, chẳng hơn được ai,
Nhưng cũng là một người trong đám dân đó.
Hình dung tuy như con chó nhà ma,
Nhưng chưa chịu vểnh tai dành cái mẩu xương vứt ra đó.
Bứt giải, lột mũ, tạ bạn bè,
Một mình cùng với lũ ruồi, chúng kêu vo vo như sấm, bu lại trên đám hành.
Bạn bè giận tôi không mở cửa,
Nhưng ngài thử coi, ai khứng nghiêng mình trước cửa nhà tôi?
Chỉ thương tình trăng ngây thơ tuôn ánh sáng như nước xối,
Nửa đêm đổ ánh sáng mát lọt vào nhà ta.
Gió từ nam thổi tới, chưa phải là lúc có mưa,
Nhưng cũng vì cái người mệt mỏi mà rửa sách những nực nội ấm ức trong lòng.
Vén tay áo đáp lại bằng một bài dao: rằng sướng thay!
Nhưng chưa một thoáng, lại nghĩ tới chuyện đói no ngày mai.


Ba bài hoạ vần thơ của Không Nghị Phủ, nhưng cốt cách không phải là hoạ. Không chỉ tài tình, mà còn tài hoa nữa. Giọng khinh bạc, thì cao vòi vọi. Giọng cay đắng, thì cay cùng cực. Giọng nồng nàn, giọng giận dữ. Trong một cảm tình, đó há không là những phương trời viễn mộng, trong cùng một lúc, bỗng đột ngột hiện về? Ban đầu ông nói sử tình nắng hạn và cảnh khó của ông. Rồi bất chợt lời thơ như phẫn nộ, có thể thấy những chỗ ông gằn giọng, cuối cùng là giọng thơ trở nên điềm đạm, và đến lúc chấm dứt thì ngậm ngùi: rượu nồng cho tình người nồng nàn trong một cõi nhân sinh, và xương trắng lạnh lùng với đất cho lịch sử trở thành những lời vĩnh tịch.

Nắng hạn cùng cực, mưa gió cùng cực, mọi cái hiện ra trong sự cùng cực sôi động. Lời thơ có phẫn nộ, có phóng dật, mang tất cả phong vận tài hoa sôi động, nhưng phảng phất một cõi trầm lặng tịch liêu, một viên đá nhỏ nằm giữa ngã ba đường, trong cảnh tượng náo nhiệt. Hồn thơ toả ra từ đó, bao trùm cả một cõi thơ bát ngát. Đá cuội say sưa nghiêng ngửa, và xương trắng lạnh lùng không nói: đâu là trời thơ? Đó là dấu lặng trong một bản đại hoà tấu. Không nên nghe một cách khinh suất.

Bản dịch nghĩa trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng (Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, 1973).