南海旅次

憶歸休上越王臺,
歸思臨高不易裁。
為客正當無雁處,
故園誰道有書來。
城頭早角吹霜盡,
郭裏殘潮蕩月回。
心似百花開未得,
年年爭發被春催。

 

Nam Hải lữ thứ

Ức quy hưu thướng Việt vương đài,
Quy tứ lâm cao bất dị tài.
Vi khách chính đương vô nhạn xứ,
Cố viên thuỳ đạo hữu thư lai.
Thành đầu tảo giốc xuy sương tận,
Quách lý tàn triều đãng nguyệt hồi.
Tâm tự bách hoa khai vị đắc,
Niên niên tranh phát bị xuân thôi.

 

Dịch nghĩa

Lúc nhớ nhà chớ nên lên đài Việt vương chơi,
Khi lên cao nỗi nhớ nhà lại bùng lên không kiềm chế được.
Là khách ngụ cư tại nơi chim nhạn bay không tới,
Ai nói rằng thư nhà lại có thể tới được.
Có tiếng tù và thổi nơi đầu thành, sương tan hết,
Nước triều đã rút ngoài quách, trăng từ từ lặn.
Nỗi nhớ nhà như trăm hoa chưa nở,
Mỗi năm được chúa xuân thúc tranh nhau nở, bị thúc giục.


Tác giả quê ở Thư Châu (nay là huyện Tiềm Sơn, tỉnh An Huy), vì đi thi không đậu, nấn ná ở trọ tại Nam Hải (nay là Quảng Châu) để thi khoa sau. Ông tả nỗi nhớ nhà trong bài này.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Việt vương đài chớ lên cao ngắm
Vì nhớ nhà khó nén được nào
Sống miền không nhạn bay vào
Làm sao ai bảo được trao thư nhà
Tù và thổi, sương sa tan sạch
Nước triều ngoài bờ quách rút rồi
Nhớ nhà tựa bách hoa thôi
Xuân về hoa nở, lòng người nhớ quê

tửu tận tình do tại
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Nhà nhớ chớ lên đài Việt chơi,
Lên cao nỗi nhớ lại lên thôi.
Khách cư nơi nhạn bay không tới,
Ai nói thư nhà có tới nơi.
Có tiếng tù và sương khói hết,
Nước triều đã rút quách trăng rơi.
Trăm hoa nỗi nhớ nhà chưa nở,
Tranh phát tháng năm xuân giục rồi.

15.00
Trả lời