Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu

Đăng bởi tôn tiền tử vào 11/11/2018 13:02

次韻孔毅甫久旱已而甚雨其三

天公號令再不出,
十日愁霖併為一。
君家有田水冒田,
我家無田憂入室。
不如西州楊道士,
萬里隨身惟兩膝。
沿流不惡斥亦佳,
一葉扁舟任風突。
山芎麥麴都不用,
泥行露宿終無疾。
夜來飢腸如轉雷,
旅愁非酒不可開。
楊生自言識音律,
洞蕭入手清且哀。
不須更待秋井塌,
見人白骨方銜杯。

 

Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 3

Thiên công hiệu lệnh tái bất xuất,
Thập nhật sầu lâm tính vi nhất.
Quân gia hữu điền thuỷ mạo điện,
Ngã gia vô điền ưu nhập thất.
Bất như Tây châu Dương đạo sĩ,
Vạn lý tuỳ thân duy lưỡng tất.
Duyên lưu bất ố tố diệc giai,
Nhất diệp biển chu nhiệm phong đột.
Sơn khung mạch khúc đô bất dụng,
Nê hành lộ túc chung vô tật.
Dạ lai cơ trường như chuyển lôi,
Lữ sầu phi tửu bất khả khai.
Dương sinh tự ngôn thức âm luật,
Động tiêu nhập thủ thanh thả ai.
Bất tu cánh đãi thu tỉnh sáp,
Kiến nhân bạch cốt phương hàm bôi.

 

Dịch nghĩa

Ông trời không ban hiệu lệnh mưa nữa,
Mưa một lần suốt luôn mười hôm, dầm dề ủ dột.
Nhà bác có ruộng, nước tuôn ngập ruộng,
Nhà tôi không ruộng lại lo nước tràn lên thềm.
Chẳng bằng như Dương đạo sĩ ở Tây châu,
Đi hàng vạn dăm, chỉ theo mình hai cái đầu gối.
Xuôi dòng không ghét, ngược dòng cũng tốt,
Một mảng thuyền, mặc tình trôi.
Cỏ thuốc rừng, rượu bếp tẻ, đều không cần,
Lội bùn, ngủ sương, không vội vã.
Nhưng đêm đến, bụng đói, kêu như sấm,
Thì cái sầu cô lữ, không rượu, làm sao nguôi?
Lão Dương tự cho giỏi âm luật,
Đưa sáo vào tay, tiếng nghe trong mà buồn.
Khỏi đợi giếng mùa thu vỡ nước,
Thấy người xương trắng mới ngậm chén.


Bản dịch nghĩa trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng (Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, 1973).