Nguyên dẫn: “Lâu tại phủ thành tây môn ngoại, phủ lâm Động Đình, thị Lã Tiên tam tuý xứ. Kim thượng nhị tằng phụng Lã Tiên tượng, hạ tằng bản bình khắc Phạm Văn Chính công ký, danh chư, biển ngạch viết ‘Phủ khám trùng hồ’, viết: ‘Lâu ngoại hồ sơn’, viết ‘Khí tượng vạn thiên’. Bàng hữu Thạch Mai đình, đình trung thạch bích khắc chiết mai nhất chi, hựu thạch bi khắc Lã Tổ tượng tịnh tán văn, môn biển ‘Tiên mai di tích’; bằng cao túng lãm thiên thuỷ nhất sắc, Quân Biển nhị sơn ẩn ước ba gian.” 樓在府城西門外,俯臨洞庭,是呂仙三醉處。今上二層奉呂仙像,下層板屏刻笵文正公記名諸扁額曰俯瞰重湖,曰樓外湖山,曰氣象萬千,旁有石梅亭。亭中石璧刻折梅一枝又石碑刻呂祖像並贊文,門扁仙梅遺跡。憑高縱覽,天水一色,君扁二山隱約波間。 (Lầu bên ngoài cửa Tây thành phủ, nhìn xuống hồ Động Đình là nơi Lã Tiên ba lần say. Nay tầng hai thờ tượng Lã Tiên, ở dưới có bức bảng gỗ khắc tên bài ký của Phạm Văn Chính. Các biển ngạch khác có tấm đề “Phủ khám trùng hồ” [Cúi nhìn thấy hồ lớp lớp]; có cái đề “Lâu ngoại hồ sơn” [Núi hồ phía ngoài lầu]; có tấm đề “Khí tượng vạn thiên” [Khí tượng vạn ngàn]. Bên cạnh có đình Thạch Mai, trong đình có vách đá khắc một nhành mai chiết; lại có bia đá khắc tượng Lã Tổ và bài văn tán tụng. Tấm biển ở cửa đề “Tiên Mai di tích” [Di tích Mai Tiên]. Lên lầu cao phóng tầm mắt nhìn ra xa, thấy trời nước một màu; hai ngọn núi Quân, Biển thấp thoáng trong sóng nước.)
Nhạc Dương lâu (
29.382,113.094): Nhạc Dương lâu 岳陽樓 là một toà lầu tháp ở cửa Tây thành Nhạc Dương, quận Ba Lăng, tỉnh Hồ Nam, bên bờ
hồ Động Đình, và là một trong Tứ đại danh lâu của Trung Quốc, và là một trong một trong Giang Nam tam đại danh lâu (hai lầu còn lại là Đằng Vương các và
Hoàng Hạc lâu). Đây vốn là lầu duyệt quân của đại tướng Lỗ Túc 鲁肃 (171-217) của Đông Ngô thời Tam Quốc. Năm Kiến An thứ 20 (215), Tôn Quyền cùng Lưu Bị tranh giành Kinh Châu, đại tướng Lỗ Túc dẫn quân đóng tại vùng chiến lược là Ba Khâu, tại hồ Động Đình thao luyện thuỷ quân, nhân đó cho xây đắp thành Ba Khâu. Tại khu vực ven hồ Động Đình, ông cho xây dựng một lầu để kiểm duyệt thuỷ quân. Từ trên lầu có thể trông thấy quang cảnh khắp hồ hồ Động Đình, ngọn núi Quân Sơn ở bên trái phía bên kia bờ hồ, cảnh sắc vô cùng đẹp đẽ. Thời Tấn và Nam Bắc triều, lầu đổi tên thành Ba Lăng thành lâu. Nhan Duyên Chi có bài thơ
Đăng Ba Lăng thành lâu viết về lầu này. Thời Đường, lầu được gọi là Nhạc Dương lâu. Do vùng đất Nhạc Châu nối liền nam bắc, lại có nhiều thắng cảnh lầu, đài nên nhiều thi nhân thường xuyên tới đây. Năm Khai Nguyên thứ 4 (716), trung thư lệnh Trương Duyệt 張說 (667-730) bị biếm quan về Nhạc Châu, thường hội họp văn nhân lên lầu ngâm vịnh thơ. Nhiều thi nhân nổi tiếng như Trương Cửu Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Giả Chí, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hàn Dũ, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị, Lý Thương Ẩn từng tới đây và ngâm vịnh, trong đó có bài
Đăng Nhạc Dương lâu là một tuyệt tác của Đỗ Phủ. Năm Khánh Lịch thứ 4 (1044) đời Tống Nhân Tông, Đằng Tông Lượng 滕宗諒 tự Tử Kinh 子京, đồng bảng tiến sĩ và là bạn tâm giao của Phạm Trọng Yêm, nguyên làm chức tư giản trong triều, vì tiểu nhân ghen ghét nên bị vu cáo là lạm dụng tiền công sứ, phải giáng chức trích ra làm quan thái thú quận Ba Lăng. Năm sau ông cho trùng tu Nhạc Dương lâu và mời Phạm Trọng Yêm sáng tác
Nhạc Dương lâu ký, Tô Đông Pha viết bài ký trong lòng bia, Triệu Sơ viết chữ triện trên trán bia, đương thời khen là tứ tuyệt. Bài ký của Phạm Trọng Yêm nổi tiếng với lý tưởng chính trị mà ông thể hiện trong câu “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” 先天下之憂而憂,後天下之樂而樂 (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).

Hình: Nhạc Dương lâu

Hình: Toàn cảnh Nhạc Dương lâu nhìn ra hồ Động Đình