寄待詔尚書灝澤侯契台

駘蕩春光遠近郊,
琴書羈思倚衡茅。
偶逢尺札傳梅驛,
尤憶橫塘鬱柳梢。
緊件豈惟天地會,
歡期當在夏秋交。
想今城政多敷布,
可有良言澤與袍。

 

Ký đãi chiếu thượng thư Hạo Trạch hầu khế đài

Đài đãng xuân quang viễn cận giao,
Cầm thư ki tứ ỷ hành mao.
Ngẫu phùng xích trát truyền mai dịch,
Vưu ức hoành đường uất liễu sao.
Khẩn kiện khởi duy Thiên Địa hội,
Hoan kỳ đương tại hạ thu giao.
Tưởng kim thành chính đa phu bố,
Khả hữu lương ngôn trạch dữ bào.

 

Dịch nghĩa

Ánh xuân mênh mông khắp chỗ gần chỗ xa ngoài thành,
Sách đàn, nỗi niềm lữ khách, đứng dựa bên cửa nhà tranh.
Tình cờ nhận được thư truyền từ trạm dịch chuyển đến,
Lại thêm nhớ cây liễu sum suê bên bờ.
Việc khẩn cấp há chỉ có hội Thiên Địa?
Kỳ vui chính là lúc cuối hạ đầu thu.
Nghĩ nay việc chính sự trong kinh thành có nhiều điều ban bố,
Như có lời nói hay thì đó là áo lót và áo khoác ngoài.


Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]