Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo. Hải Phòng. Học giỏi, đỗ Trạng nguyên. Ông có câu thơ: “Văn khôi tam thượng tiến tài sơ”, nghĩa là 3 lần đỗ đầu vần cười mình tài tầm thường. Làm quan dưới triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường dạy học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng). Nguyễn Dữ... Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, vua nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Nhũng câu thơ viết về thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập” và trên 1.000 bài thơ chữ Hán trong “Bạch Vân Am thi tập”.

Năm Nhâm Dần (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm làng quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão dựng quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong “Bài bia ở quán Trung Tân”. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

Có người hỏi ta rằng: “Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?”. Ta trả lời rằng: “Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy, tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy”...

Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề Trung Tân ngụ hứng. Bài thơ thứ nhất này gồm 24 câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc- thực sắc...) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:
Sông ngòi vòng tây bắc
Làng xóm bọc tây nam
Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong Bài bia ở quán Trung Tân, tác giả cho biết rất cụ thể:... “bến Trung Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía Tây nhìn Tây Kinh; bên Nam trông sang Ngư Khê, thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau: bên Bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang, thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu; một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này”.

Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông Trạng sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ “xe ngựa bụi không đến” mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cành, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hoá. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại chan hoà giữa thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ... lòng càng thêm “tiêu dao, khoan khoái”. Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hoà, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:
Hoa, trúc tay tự giồng
Gây, dép bên mùi hoa
Chén, cốc ánh sắc hồng
Rửa nghiên, cá nuốt mực
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một cuộc đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai để có như Trạng Trình?
Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín,
Sách được câu thần dạ những ngong.
(Bài 111)
Trà sen, sáng đãi người đưa khát
Rượu thánh, hòm mời khách uổng say.
(Bài 140)
Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép
Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền.
(Ngụ ý - thơ dịch)
Giọng thơ biến hoá pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về “vụng” và “xảo”. Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?
Người xảo thì ta vụng.
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng, người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về 2 loại người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao...
Nơi vắng vẻ là sống với ruộng vườn, thoái vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành giật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đáng trọng, có kẻ đáng khinh!

Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần, nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện lợi danh ở đời và tâm thế kẻ sĩ:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt.
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao!
Đám phồn hoa rót bước chân vào.
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết.
(Thoát vòng danh lợi)
Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, mọi tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội: là bài học về đạo lí và nhân sinh: “Đường đời rất gập ghềnh... Lòng người rất hiểm nghèo”. Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, mấy trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.
“Chí thiện” là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở đời. Biết sống đẹp và hướng thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ngợi ca là ông thầy của cả một thời đại.

Đền thờ Nguyễn Binh Khiêm đến nay vẫn còn có bức đại tự sơn son thiếp vàng với 4 chữ: “Như nhật trung thiên” - như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hổ Chí Minh dạy cán bộ Đảng viên: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đó cũng là chí thiện vậy. Bài học về “chí thiện” vẫn nhiều mới mẻ đối với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sáng muôn đời được ngợi ca.