潭州熊相驛

亂山北去水東流,
景物推人不自由。
涯口秋聲來半枕,
衡陽月色上孤舟。
滿江煙浪湘妃恨,
兩鬢風霜宋玉愁。
試摘黃花吟楚些,
一杯聊為醉南樓。

 

Đàm Châu Hùng Tương dịch

Loạn sơn Bắc khứ thuỷ đông lưu,
Cảnh vật thôi nhân bất tự do.
Nhai khẩu thu thanh lai bán chẩm,
Hành Dương nguyệt sắc thướng cô châu.
Mãn giang yên lãng Tương Phi hận,
Lưỡng mấn phong sương Tống Ngọc sầu.
Thí trích hoàng hoa ngâm Sở tá,
Nhất bôi liêu vị tuý Nam lâu.

 

Dịch nghĩa

Núi chen chúc chạy về phía bắc, sông chảy về phía đông,
Phong cảnh thôi thúc người không thể rảnh rang.
Tiếng thu ở Nhai Khẩu đến bên nửa gối,
Ánh trăng Hành Dương chiếu chiếc thuyền cô quạnh.
Khói sóng đầy sông, nhớ nỗi hận của Tương Phi,
Gió sương cả hai phía tóc thái dương, nghĩ đến nỗi buồn của Tống Ngọc.
Thử ngắt bông hoa cúc, ngâm bài Sở tá,
Một chén tiêu sầu say trên lầu Nam.


Theo Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn.

Đàm Châu là đất cổ thuộc Sở, nay là huyện Trường Sa, thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đào Phương Bình

Núi bắc sông đông hướng mỗi miền,
Dục người phong cảnh những triền miên.
Tiếng thu Nha Khẩu gieo lưng gối,
Sắc nguyệt Hành Dương trải khắp thuyền.
Sông rợn sóng, Tương Phi oán hận,
Tóc pha sương, Tống Ngọc ưu phiền.
Hoàng hoa, Sở tá, ngâm cùng chuốc,
Một chén lầu Nam cứ bốc men.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Núi xô về Bắc nước xuôi Đông
Cảnh vật giục người tự tại không
Nhai khẩu tiếng thu lan nửa gối
Hành Dương thuyền rắc ánh trăng trong
Tương Phi ôm hận sông sương sóng
Tống Ngọc nghĩ buồn tóc tuyết phong
Thử hái cúc vàng từ phú Sở
Lầu Nam mượn chén tạm yên lòng.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Núi chen về bắc sông xuôi đông,
Cảnh vật thúc người khó đứng không.
Nhai Khẩu tiếng thu bên nửa gối,
Hành Dương trăng chiếu sáng thuyền trông.
Đầy sông khói sóng Tương Phi hận,
Sương gió mái đầu Tống Ngọc mong.
Thử ngắt cúc hoa ngâm Sở tá,
Lầu Nam một chén triệt sầu đong.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Núi chen về bắc, nước về đông
Phong cảnh xuôi ai dễ cảm lòng
Bóng nguyệt Hành Dương thuyền quạnh quẽ
Tiếng thu Nhai Khẩu gối mơ mòng
Tương Phi ôm hận sông lồng khói
Tống Ngọc mang sầu tóc nhuộm bông
Ngắt đoá hoa vàng ngâm khúc Sở
Lầu Nam một chén dạ bâng khuâng

Chưa có đánh giá nào
Trả lời