Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Thơ tự do
Thời kỳ: Hiện đại

Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 18/11/2012 09:10

TỔNG THỐNG
“- Họ đã tập kích vào tòa đại sứ
mười lăm phút, vâng, cách đây mười lăm phút
đêm nay, đêm Giao thừa Mậu Thân
hỏi còn chỗ nào yên ổn hơn
cho nước Mỹ
trên bán đảo cỏn con
cái bán đảo bao giờ cũng ngỡ bị sóng Thái Bình Dương
nuốt chửng
và cái lãnh thổ cỏn con của họ có gì bí hiểm
mà chúng ta gậm một phần tư thế kỷ chẳng mòn
quai hàm của chúng ta cũng mệt nhoài
với sóng Thái Bình Dương...
Hỏi còn cách nào hơn
để diệt mầm Cộng Sản
máy chém ư?
những lưỡi chém bằng thép và thợ rèn hảo hạng
đã cùn
trong cuộc hành-quân-máy-chém
hàng viện trợ? Chúng ta hùn cả vốn
không cứu nổi mớ quân bài tã lót
tung lính Mỹ vào ư?
thật không còn thứ bia nào sinh động hơn
bao mũi súng cứ thập thò sau lá

cái màu lá ngụy trang
qua vĩ tuyến vẫn màu trăng kỳ lạ
cái màu trăng ngụy trang!...

Hỏi còn cách nào hơn
bom đã ném xuống bên kia màu trăng ấy
người chảy máu và trăng chảy máu
những chiếc “F” chiếc “A” chảy máu
lửa bén sang Lầu Năm Góc của ta
không phải cháy ở xa
lửa bốc ngay trước cửa
ta phải tuôn nước mắt ướt đầm như một kẻ khóc thuê
thứ nước mắt tuôn ra không phải nhờ ớt cay mà là vì lửa
để khóc cho hòa bình
ta đã bắt tay rất thiện tình
cả với người quáng mắt
miễn họ nói một lời dù rẻ mạt
cho danh dự của ta trên bán đảo cỏn con này.

Nhưng không được rồi
họ đã đấm vào cửa nhà ta ở
cửa nhà nước Mỹ
phía Sài Gòn
họ đã đấm vào phòng ta ngủ
từng hồi chuông điện thoại kinh hoàng
họ từ đâu? Ở đâu? Măng đã mọc thành rừng
măng đã mọc thành chông thành súng
măng đã mọc những sư đoàn biệt động
măng đã mọc những sư đoàn thiện chiến

bên này bờ vĩ tuyến
hỏi còn cách nào hơn?...
- Rút chân khỏi bùn?
ôi đáng sợ là vùng bùn châu thổ
cái vùng bùn chính trị
cái vùng bùn quân sự
vùng bùn trên lục địa mênh mông!...
- Hãy chặt đứt “cuống xoong” trên bán đảo Đông Dương
đoạn miền Trung đất Việt
như cá bị chặt ra từng khúc
như động mạch giữa chừng bị cắt
a ha ha
Nam Việt Nam phải hóa thành hòn đảo giữa đất liền
rừng măng sẽ chết vì nước mặn
thứ nước mặn của bom của đạn
của nước Mỹ chúng ta...”

Như con hổ trọng thương - viên tổng thống
gào lên. Hai tay đấm trời xanh
trời vần vũ nghìn đám mây màu xám
chiến hào hằn sâu trên vừng trán
chiến hào màu đen
phác những đội hình
cho không lực dàn đội quân quỷ quái
viên tổng thống mỉm cười, đắc ý:
“- Chẳng lẽ bùn lầy lội trời cao?
hãy đem ra pháp trường
những phi công nói láo
sau khi hắn từ Việt Nam trở lại

dù chỉ trong ý nghĩ
về những vệt bùn hắn đã gặp trên không!?
“Nhưng muốn họ đắng cay hơn, hãy cho vị ngọt ngào
trước cái chết, hãy cho hy vọng sống”
(phút yên lặng của viên tổng thống
có bao nhiêu cơn bão lớn đi qua):
“- Thưa các ngài
không lực Mỹ sẽ ném-bom-hạn-chế
trên vùng đất các ngài đang ở
ngoài vĩ tuyến hai mươi, trẻ nhỏ
hãy ném đi những chiếc mũ rơm
đó là dấu hiệu hòa bình
mà người lớn chúng ta mong muốn
vĩ tuyến hai mươi, vâng bên này vĩ tuyến
xin giữ làm nhiệt-kế-chiến-tranh!

Tổng thống nghẹn ngào, nước mắt vòng quanh
thứ nước mắt lọc lừa gian xảo
rồi tổng thống quay về cùng tiệc rượu:
- “Hỡi các ngài trong cuộc chiến tranh này
chúng ta không làm nhạc sĩ
đi hát rong cảm xúc tóe tung
hãy làm nhà thơ nén từng câu từng chữ
từng câu đạn, từng chữ bom
nén lại trên “cuống xoong”
Khu Bốn
ta sẽ có một bài thơ cô đọng
trong cuộc chiến tranh này
mà điểm sáng bài thơ là Ngã ba Đồng Lộc
ngã ba chiến lược
nơi tất cả mọi con đường ta dễ dàng cắt đứt
sẽ tụ về Đồng Lộc. Tứ thơ hay
hỡi các ngài
ta sẽ dùng từ mới ở đây
MÔĐEN 1, MÔĐEN 2
bom bốn cánh hình bán cầu khuyết lõm
những A6, A7, F4
hãy dồn vào đây
và nếu cần, cả pháo-đài-bay
để cửa ngõ chiến trường thành Cửa Tử
đó là chiến-tranh-hạn-chế
a ha ha
ta không làm nhạc sĩ
hãy làm nhà thơ trong cuộc chiến tranh này
điều khiển câu bom chữ đạn
nào,
chạm cốc, chạm ly, chạm...”

Bữa tiệc máu trong dinh tổng thống
đã bắt đầu như thế, bắt đầu
trời thì cao, biển cả thì sâu
đất thì rộng, ngôi nhà thì kín mít
Oa-sin-tơn điện màu nhòe nhoẹt
mặt Giôn-xơn lúc hiện lúc mờ...
NHỮNG CÔ GÁI
Một ông sao sáng
hai ông sao ngời
bốn
năm
sáu
bảy
sao trời
ghép gàu sóng tát cho vơi đêm dài
chòm sao nào ghép gàu dai
sao Thần nông có biết ai thức cùng?
ở đây trời đất một vùng
trông xuống biển
ngó lên rừng
dễ thay!
một đêm rồi lại một ngày
mấy lần giặc phá, mình xây mấy lần
đoàn xe mải miết về Nam
sao rung trên lá ngụy trang lập lòe

Qua một chuyến xe
qua hai chuyến xe
con đường thở dốc...
qua ba chuyến xe
qua bốn chuyến xe
tim người hồi hộp....
năm
sáu
bảy
tám....
chuyến xe
hàng cây lặng gió lắng nghe bồn chồn
người ngồi mỏm núi gác bom
giữa trời sao, dáng thon thon, tóc dài....
Đất sâu vọng tiếng học bài
một

hai
ba...

lại một, hai... lũy thừa
độ cao “hát”, góc “anpha”
đường lên bởi dốc, đường “cua” bởi vòng
tiếng Xuân “Vĩnh Lộc” trong trong
giọng Xuân “Đức Hồng” hay hỏi, the the
người ngồi mỏm núi lắng nghe
tiếng học bài với tiếng xe quyện hòa....

“Chị La ơi, buồn ngủ chưa?
xuống đây giảng hộ một tua đã nào
bài hình mới khó làm sao
cái bài lượng, chẳng tài nào giải ra!...”
Tiếng Tần át tiếng xe qua
La nhìn trời... bỗng sao nhòa âm thanh
trời cao như chốc rùng mình
- máy bay lũ giặc trá hình vào sao
vẫn là chấm lửa trên cao
với người lính gác, làm sao đánh lừa?

Một chấm lửa kia
hai chấm lửa kia
bốn
năm...
chấm lửa
con mắt kẻ thù
lúc long lên, lúc đỏ lừ, lăm le
“- Tần ơi, xong trận này về

lại ngồi bên ánh đèn che, học bài!”
Đất chao một loạt bom dài
đất ơi, đất có mệt nhoài vì bom?

Hái lá chua-ngút non
ngậm cho đỡ khát
trên đường đi lấp hố bom nắng cuối xuân bức bối
cây chút - ngút cạnh ngã ba sót lại
lá tròn đầy như giọt nước tiên

Ở đằng kia suối Út đã bị thương
cách suối một quả bom
mà không sao đến được!

Đã bắt đầu mùa gió Lào khắc nghiệt
đã bắt đầu mùa bom?

Đội nữ giao thông
hai mươi cô gái
sau mỗi trận bom, tiếng bước chân chạy vội
những căn hầm lắng nghe, mong đợi
những căn hầm
chiếc áo giáp họ cởi ra, để lại
mong manh áo vải mẹ may cho
lại một trận bom, họ vẫn chưa về
những căn hầm thắc thỏm
biết họ lấy gì che bom che đạn
ngoài trái tim
và tấm áo mong manh của mẹ?...
Đường thông xe
hai mươi cô gái trở về
những căn hầm đã bay đi đâu cả
chỉ còn đất đá
hun hút hố sâu
chỉ còn những mảnh giấy nát nhầu
như cánh bướm phập phồng run rẩy
đây bài văn của Xanh còn bỏ dở
đây bài lượng giác của Thủy, của Hường
đây lá thư Mùa viết vội trên đường
cho La biết: “Anh thành quân vận tải
thế nào anh cũng qua Đồng Lộc ấy
thăm bao cô bạn gái ở cùng em...”

La đứng lặng tim
những cô gái vây quanh lặng phắc
họ nhìn vào mắt La, như hỏi
- Chúng ta sẽ ở đâu, chị La?
- Chúng ta sẽ ở đâu, đội trưởng?

“- Sẽ ở đâu?
khi chiến tranh hóa phép tính chia, tính cộng
đất Khu Bốn nhận cả phần bom đạn
cho Thanh Hóa, Hải Phòng, Hà Nội...
các đồng chí ơi
nơi chúng ta thêm một loạt bom rơi
bớt gánh nặng cho Quân Khu mình đấy
bớt gánh nặng cho Hoàng Mai, Tam Soa, Bến Thủy
cho Kỳ Anh, Long Đại, Xuân Sơn...
cho miền Nam
cho cả nước
cho trong căn phòng Bác Hồ làm việc
đêm không phải che ba phía ngọn đèn
- chúng ta sẽ ở đâu?
con đường vẫn vươn thẳng bạch đàn
thân dẫu gãy, gốc không rời đội ngũ
ta đã thề bám trụ
với con đường, Ngã ba!”

Hường tìm đâu được cành hoa mua
cắm cẩn thận trên ngổn ngang đất đá
- thôi chào nhé, những căn hầm yên nghỉ
đội nữ giao thông dời lên đồi cao!
Đất Tổ quốc, chân bấm từng bậc dốc
những bắp chân con gái tròn đầy...

LỜI CỦA NẮNG
Ta say mùi cháy khét đá gan gà
ta say mùi héo khô cây cỏ
nên muốn nung đất này chín đỏ
cho mùi mật cháy bốc lên
nếu có ai nản lòng
rời bỏ quê hương đất cằn đá cỗi
ta nhìn theo mỉm cười!
và,
có gì lạ thế, trưa nay
hai mươi đôi chân hai mươi tuổi trẻ
giẫm lên mình ta buốt giá
ta phun lửa. Nhưng họ không hề sợ
họ vẫn lên từng bậc dốc cao cao
họ đi hái sao
hay đi trẩy mặt trời
mồ hôi chảy trên mình ta như suối
ta nhũn mềm, ta tan rữa
ta bị bỏ rơi sau bóng họ đổ dài...

LỜI CỦA GIÓ NÓNG
Ta từng phi qua bao miền lửa cháy
lật đổ rừng cây, lật đổ ngôi nhà
ta đi khắp miền Trung cát sỏi
ôi, những tấm-lưng-trần-đất-đai quê hương ta
bỗng có gì lạ thế, trưa nay
hai mươi bộ ngực hai mươi tuổi trẻ
dâng lên đồi cao trấn giữ
ta giật phừng phừng tóc xanh
ta giật phừng phừng bắp chân
không lay chuyển, họ không hề lay chuyển
ta mệt nhoài, mặt đỏ gay, xấu hổ
ngã sõng soài trên sườn đồi lăn xuống lũng cỏ may...

BÀI CA
Khát
xin uống bài ca
lên dốc mệt
bài ca làm gậy chống
ai buồn nhớ, bài ca xin bè bạn
ai đang vui bài ca đến vui cùng
nắng gió không héo khô bài ca xanh tốt lạ lùng
đi đánh giặc bài ca thành vũ khí
xin đến hát trên môi tuổi trẻ
lời hát tình yêu
xin đến hát cùng hai mươi cô gái trên đồi
lời hát đào hầm bám trụ
áo mỏng tướp vai
bàn tay bàn chân bỏng rộp
lời ca đau bấm sâu thêm nhát cuốc
và long lanh mắt ướt
từ đồi cao bay xuống ngã-ba-bom
bài ca mở tuyến thông đường
át tiếng gầm bom đạn
yêu Tổ quốc bài ca trong sáng
bài ca cùng số phận những đời người....

Treo giò phong lan xanh tươi
trước cửa hầm lưng đồi Đồng Lộc
đội gái giao thông quây quần như gió mát
chuyện về những anh lái xe tinh nghịch
đi qua Đồng Lộc chiều nay
giò phong lan ai gửi tặng ai đây?
cái Hường, cái Xanh, cái Tần, cái Thủy
hay cái Nho “lúm đồng tiền hết ý”?...
- ôi, sao chúng mình không có một anh chàng để nhớ
mà biết đâu, có anh chàng bóng gió nhớ chúng mình!
người bảo tình yêu thường đến thình lình
người bảo tình yêu phải cãi nhau một “cú”
- nhất cự li, nhì cường độ
người lại bảo xa nhau tình yêu mãnh liệt hơn

chăm viết thư chưa hẳn đã thủy chung
yêu lặng lẽ biết mưa hay là gió?..
“- chị La ơi, chị La phân giải hộ
giò phong lan ai gửi tặng ai đây?”
Giò phong lan khẽ nở búp hoa đầu
cả đội nhận của mình, của tớ

Những cuộc vui như thế
giữa chừng hai trận bom...

NHÂN DÂN
Súng hiệu tắc đường nổ ba phát một
như tiếng hú dài
choàng dậy xóm làng quanh Đồng Lộc
nói choàng dậy, nhưng nào ai ngủ được
người thức nghe, cây cối thức nghe
căn nhà thức nghe
giường phản thức nghe
tiếng rì rầm đoàn xe
tiếng gió thở phía Ngã ba vọng lại
ông già khăn đỏ thủ rìu bỏ điếu cày hút vội:
“- Tiếng súng đội o La!”
cả xóm làng: “Tiếng súng đội o La!”
họ đổ về Ngã ba
gió đêm chạy chân trần cuồn cuộn...
Cuối Ngã Ba một vực bom thăm thẳm
máu suối Út chảy vào loang trắng

phía tây núi dựng
con đường quờ quạng
qua vực thẳm tìm nhau.
Nhân dân nhìn vực sâu
đau nỗi đau Bến Hải
nhưng còn thời gian đâu để lặng yên và hỏi
lòng người bao nhiêu vĩ tuyến cắt chia?
Đá xẻ lòng mình ra
rời bụng núi xuống vực sâu xây móng
đất xẻ lòng mình ra lấp vào khoảng trống
lũy tre vang, cây xoan vườn
ai định dựng nhà cao, ai định làm giường cưới
xin đừng hỏi, xin đừng ai gặng hỏi
chú rể tương lai đang ở chiến trường xa
cô dâu tương lai còn bận trực ca
nơi nhà máy
cách nhau một vực bom này đấy
cách nhau một vực bom
không tự nguyện làm cầu qua lửa cháy
biết bao giờ chú rể gặp cô dâu?

La đón từ nhân dân những cột những kèo
những cây gỗ cụ trồng cho ông bà, ông bà trồng cho cha mẹ
những cánh cửa ngậy mùi sơn mới
tấm phản gụ ba người khiêng không nổi
ngọn gió nóng tạt qua
bàn tay chạm vào mặt phản
ngỡ chạm vào giấc ngủ tuổi thơ...

Viên gạch nung từ bao giờ
sau lớp vữa, còn tươi như máu
trong ánh chớp nhoáng nhoàng đêm chiến đấu
vân bàn tay trên viên gạch ngời lên
vân bàn tay bây giờ gặp vân bàn tay tổ tiên
rồi tất cả đắp vào con đường tuyến.

Lại một trận bom ném xuống
Nhân Dân
“- Nhân Dân hãy tản ra, ẩn nấp!”
“- Đoàn xe trên đường biết ẩn vào đâu?
“- Nhân Dân hãy tản vào những căn hầm lưng đồi!”
“- Các o nấp vào mây trời được chắc?”
La nhìn Nhân Dân, cô muốn khóc
“Không thể nào ra lệnh được Nhân Dân
khi chưa hiểu hết lòng dân rộng lớn
Nhân Dân sống Nhân Dân làm lụng
áo vá vai lòng thơm thảo lành nguyên
Nhân Dân căm hờn như núi dựng chông
Nhân Dân yêu thương đồng dâng gạo trắng
bom đạn giặc từ trời cao ném xuống
Nhân Dân từ ruột đất trồi lên!”...

Pháo sáng rơi quằn quại trời đêm
đạn phòng không dựng đứng từng bó lửa
đường viền núi, đường viền người quay đảo
gió cuốn bắp chân
núi cuộn vai trần.
con đường gãy xích lại từng gang tấc
cho đến lúc vòng bánh xe lăn trên đường chóng mặt
Nhân Dân còn nán lại, nhìn theo...

Lúc bấy giờ chợt gặp sao mai
không ai bảo ai
nước mắt Nhân Dân
như những vì sao chậm chạp rụng xuống
đất nhận mùa sao sáng
đậu quanh giấc ngủ thiu thiu
ông già khăn đỏ thủ rìu...