Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
懿親輔政想周公,
處變誰將伊尹同。
玉几遺言常在念,
金藤故事感言功。
安危自任扶王室,
左右無非保聖躬。
子孟豈能占彷彿,
擁昭僅可挹餘風。
Ý thân phụ chính, tưởng Chu Công,
Xử biến thùy tương Y Doãn đồng.
Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,
Kim đằng cố sự cảm ngôn công.
An nguy tự nhiệm phò vương thất,
Tả hữu vô phi bảo thánh cung.
Tử Mạnh khởi năng chiêm phưởng phất,
Ủng Chiêu cẩn khả ấp dư phong.
Người làm công việc phụ chánh tốt đẹp nghĩ đến Châu Công
Xử sự ứng biến giống như Y Doãn
Lời bệ ngọc để lại luôn luôn để dạ
Những việc cũ ghi trong hòm vàng đâu dám lấy để xưng công?
Tự nguyện phò Vương thất lúc an nguy
Bên tả cũng như bên hữu, không phía nào là không giữ gìn cho Thánh chúa
Tử Mạnh phỏng có thể được xem tương tự như vậy chăng?
Việc phò Chiêu Đế cũng chỉ có thể đứng nhường dưới gió thôi.
Tức Chu Công Đán, con vua Văn Vương, em vua Võ Vương nhà Chu (Trung Quốc). Ở vai chú, làm nhiếp chính cho cháu là Thành Vương lên ngôi lúc còn nhỏ, bị chính em ruột mình là Quản Thúc gièm pha và phản loạn, Chu Công đã phải cất quân đánh dẹp giúp Thành Vương. Chu Công trung thành thường được sánh với Vương Mãng, làm nhiếp chánh để tiếm đoạt ngôi vua. |
Người hiền sĩ cày ruộng đời nhà Thương (Trung Quốc), vua phải vời ba lần mới chịu giữ chức tể tướng, đủ tài bình trị quốc dân. |
Ghế vua ngồi có nạm ngọc, xem tương đương như ngai vàng không chính thức. |
Sợi dây vàng buộc chiếc hòm lưu giữ các bảng ghi công đức quần thần để ở Thái miếu. Đây nhắc lại trường hợp em vua Võ Vương nhà Chu là Châu Công Đán dâng sớ xin chết thay vua đang lâm bệnh nặng. Tờ sớ nghĩa ấy được cất vào hòm ghi công. |
Tên tự của Hoát Quan, phục vụ ba đời nhà Hán: Vũ Đế, Chiêu Đế (tức Ủng Chiêu, trong câu cuối bài thơ) và Tuyên Đế với những chức vụ Đô úy, Đại tư mã, Đại tướng quân, nắm hẳn triều chính. Sau khi ông mất, Tuyên Đế thu hết quyền từ tay những người trong tộc đảng của ông trong triều và lấy cớ mưu phản và tru di cả họ nhà ông. Riêng phần Tử Mạnh được vua ghi công nghiệp trước và cho họa hình treo ở Kỳ Lân các. |
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 13/04/2007 18:08
Giữ vai phò chánh, nhớ Châu Công
Y Doãn tòng quyền ai sánh cùng?
Lời trối ngai vàng hằng tạc dạ
Hôm xưa sớ nghĩa dám xưng công
Phò Vương tự nguyện an nguy gánh
Giữ Thánh hằng lo tả hữu xông
Tử Mạnh khó bề so sánh kịp
Ủng Chiêu vừa xứng hưởng dư phong.
Gửi bởi Vanachi ngày 03/09/2008 23:12
Người thân phụ chính nhớ Chu Công,
Y Doãn quyền nghi vốn một đồng.
Ghế ngọc trối lời thường để dạ,
Hộp vàng câu chuyện dám khoe công.
Tự đương trách nhiệm phò vương thất,
Gì chẳng phù trì giữ thánh cung.
Tử Mạnh dám đâu xem phưởng phất?
Ủng Chiêu cũng chỉ vái dư phong.
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 19/10/2014 16:09
Dối trời khinh chúa bởi trời cao,
Lồng lộng lưới trời dễ trốn sao.
Núi dựng xây thành nào chống nổi,
Chim bay vỡ tổ biết về đâu.
Suối khe gây khó xe loan tiến,
Trướng gấm sẵn bày mưu lược sâu.
Bốn biển từ nay yên lặng cả,
Nhọc nhằn lo trước ắt nhàn sau.
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 16/06/2018 15:36
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 28/12/2019 10:45
Người làm phụ chánh thờ Châu Công,
Y Doãn tòng quyền cũng sánh đồng.
Lời thác đời sau luôn để dạ,
Hòm vàng đâu dám lấy xưng công?
Phò Vương tự nguyện khi nguy khốn,
Thánh chúa hằng lo tả hữu xông.
Tử Mạnh khó xem tương tự vậy.
Phò Chiêu chỉ xứng hưởng dư phong.