Tùng cúc ngày xưa thấy đặng còn
Thân này chẳng thẹn với sông non.
Miếu đường xa cách niềm tôi chúa,
Gia thất buộc ràng nghĩa vợ con.
Áo Hán mười phần thay cách lạ,
Rượu Hồ một mực đắm mùi ngon.
Giang Đông vẫn biết nhiều anh tuấn,
Cuốn đất kìa ai dám hỏi don.


Khảo dị:
Nghĩ thẹn râu mày với nước non,
Nhìn nay tùng cúc, bạn xưa còn
.
Miếu đường cách trở đường tôi chúa,
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ,
Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon.
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi,
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon.
Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ này:
- Theo Định Tường thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện (sách cũ, không rõ tác giả) thì bài này do ông làm lúc bị giam cầm ở đảo Cayenne, và có đầu đề là Tư (nhớ) quê hương.
- Theo Tiểu truyện Thủ khoa Huân của Trần Văn Thông ghi tựa bài này là Đảo Bòn Bon năm 1865, tức bài này được làm khi ở đảo Reunion năm 1865.
- Theo Thi ca châm biếm và trào lộng Việt Nam (1969) thì năm 1874, nhân dịp Nguyễn Hữu Huân được Pháp tha về và giao cho Tổng đốc Đỗ Hữu Phương quản thúc, sau mấy năm bị lưu đày ở đảo Réunion. Ông Phương vốn là bạn cũ của Huân, tổ chức một bữa tiệc mừng, có mời đông đủ các quan người Việt đến dự. Tiệc xong, nhân có người yêu cầu ông Thủ khoa Huân làm thơ cho nghe, ông liền đọc bài thơ này, trong đó dụng ý mỉa mai một cách kín đáo những người theo Pháp bằng cặp câu luận.


[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]