Rừng nho nhen nhúm mảng lân la,
Bửa củi không quen nhọc sức à.
Búa báu dốc toan rèn cội đước[1],
Gươm linh đâu nỡ chém cây dà[2].
Đoạn ngay chí dốc phòng kinh chín[3],
Khúc vạy[4] lòng toan muốn chặt ba.
Văng vỏ[5] bao nhiêu ôm để đó,
Chờ khi nấu nước[6] sẽ đem ra.


Bài thơ này làm trong thời gian tác giả bị đày ở đảo Reunion. Trong lúc chúa ngục bắt tội nhân vào rừng đốn củi, đốt than, phá rừng, nhiều nguy hiểm. Lớp lo làm việc, lớp lo coi chừng ác thú. Phải làm cho vừa lòng bọn chúa ngục. Chân cẳng sưng lên, còn hổ khẩu tay tuôn máu, nhưng cũng không sờn cái chí khí anh hùng. Nên cụ tươi cười ngâm bài thơ này.

Chú thích:
[1]
Chơi chữ: “cội đước” gần âm với “cội đức” (lấy đức làm gốc).
[2]
Chơi chữ: “dà” gần âm với “gia” (nhà).
[3]
Chẻ làm chín mảnh.
[4]
Cong.
[5]
Vỏ cây văng ra trong lúc bửa củi. Ở đây tác giả chơi chữ trên cơ sở ngữ âm địa phương, “văng vỏ” gần âm với “văn võ”.
[6]
Chơi chữ: ý nói lo việc nước.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]