25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Nguyễn
3 bài trả lời: 3 bản dịch
Từ khoá: Dự Nhượng (3) thơ đi sứ (673)

Đăng bởi Vanachi vào 19/12/2005 00:01, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 28/03/2006 08:28

豫讓橋匕首行

晉陽城外滔滔水,
智伯漆頭為溺器。
無人報仇誠可悲,
其臣豫讓身當之。
漆身為癩剔鬚眉,
當道乞食妻不知。
身挾匕首伏橋下,
怒視仇腹甘如飴。
殺氣凜凜不可近,
白日無光霜雪飛。
再擭再舍心不移,
臨死猶能三擊衣。
凌凌奇氣千霄上,
自此橋名更豫讓。
君臣大義最分明,
國士眾人各易尙。
愧剎人臣懷二心,
千古聞之色惆悵。
不是荊軻聶政徒,
甘人豢養輕其軀。
血氣之勇不足道,
君獨錚錚鐵丈夫。
路經三晉皆丘土,
注目橋邊如有睹。
西風凄凄寒逼人,
征馬頻頻驚失路。
匕首當時七寸長,
獨有萬丈光茫亙今古。

 

Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành

Tấn Dương thành ngoại thao thao thuỷ,
Trí Bá tất đầu vi niệu khí.
Vô nhân báo cừu thành khả bi,
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi.
Tất thân vi lại dịch tu mi,
Đương đạo khất thực thê bất tri.
Thân hiệp chuỷ thủ phục kiều hạ,
Nộ thị cừu phúc cam như di.
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận,
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi.
Tái hoạch tái xả tâm bất di,
Lâm tử do năng tam kích y.
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng,
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Quân thần đại nghĩa tối phân minh,
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
Quý sát nhân thần hoài nhị tâm,
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.
Bất thị Kinh Kha Nhiếp Chính đồ,
Cam nhân hoạn dưỡng khinh kỳ khu.
Huyết khí chi dũng bất túc đạo,
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu.
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ,
Chú mục kiều biên như hữu đổ.
Tây phong thê thê hàn bức nhân,
Chinh mã tần tần kinh thất lộ.
Chuỷ thủ đương thì thất thốn trường,
Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ.

 

Dịch nghĩa

Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu
Không ai báo thù, thật đáng thương
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông
Gió tây lạnh buốt tê cóng người
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.


Dự Nhượng theo Sử ký Tư Mã Thiên, người nước Tấn, là bầy tôi Trí Bá 智伯, được Trí Bá rất kính yêu. Trí Bá đánh thua Triệu Tương Tử 趙襄子, bị Tương Tử cho sơn xương sọ dùng làm tô đựng rượu (có thuyết nói dùng đựng nước tiểu). Dự Nhượng hết lòng rửa nhục cho Trí Bá. Có lần giả làm tù nhân vào cung sửa nhà xí, dắt sẵn cây chuỷ thủ, định giết Tương Tử, không thành công. Tương Tử tha cho, coi Dự Nhượng là người hiền trong thiên hạ. Ít lâu sau, Dự Nhượng bôi sơn vào mình, làm như người hủi, nuốt than cho mất tiếng. Ăn mày ở chợ, mà vợ không nhận ra. Có người bạn nhận ra, khóc nói: “Có tài như anh, kiếm cách mua chuộc về thờ Tương Tử, tất được thân yêu. Bấy giờ thực hành ý muốn, há chẳng dễ ư?” Dự Nhượng đáp: “Đã đem thân về thờ người ta, mà lại chực giết, như thế là nhị tâm.Tôi làm như vậy là để cho thiên hạ đời sau kẻ nào làm tôi mà thờ chủ không một dạ coi đấy mà xấu hổ”. Dự Nhượng nấp dưới một cây cầu, chờ giết Tương Tử. Lại thất bại, trước khi kề gươm vào cổ tự vẫn, Dự Nhượng xin đâm ba lần vào áo Tương Tử để bầy tỏ ý chí báo thù. Được tin, các chí sĩ nước Triệu đều sa lệ. (Sử ký Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Lá Bối xuất bản, Saigon, Việt nam, 1972, trang 520-524)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Thành Tấn Dương nước cuồn cuộn chảy
Đầu Trí Bá sơn, đựng nước đái
Không người rửa hận, đáng thương thay
Bề tôi Dự Nhượng đảm đương lấy
Sơn mình làm hủi, cạo râu mày
Ăn mày giữa chợ, vợ không hay
Nấp dưới gầm cầu, mang chủy thủ
Thấy bụng kẻ thù lụi ngọt ngay
Đằng đằng sát khí, ai dám lại
Ban ngày tối sập, tuyết sương bay
Bắt tha mấy bận, lòng không đổi
Kề chết, ba lần đánh áo này
Hùng khí ngút cao tới tận mây
Cầu tên Dự Nhượng kể từ đây
Nghĩa lớn vua tôi thật rõ ràng
Quốc sĩ, thường nhân khác lắm thay
"Bề tôi hai dạ nhục đến chết"
Nghe chuyện nghìn xưa bỗng ngậm ngùi
Không giống Kinh Kha hoặc Nhiếp Chính
Coi nhẹ thân mình, được dưỡng nuôi
Dũng khí anh hùng, nói chẳng đủ
Trượng phu đanh thép chỉ ông thôi
Đường qua Tam Tấn đều gò đống
Chăm chú bên cầu như thấy bóng
Ngựa hí ầm lên sợ lạc đường
Gió tây thổi lạnh người tê cóng
Chủy thủ đương thời bảy tấc dài
Có tia vạn trượng nghìn năm sáng ngời lồng lộng

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Tấn Dương nước cuộn tràn bờ
Sơn đầu Trí Bá chậu dơ bêu dùng
Báo thù có mấy ai không
Chỉ sao Dự Nhượng đương thân việc nầy.
Sơn mình hủi, râu mày cạo nhẳn
Xin giữa đường vợ chẳng biết chi
Giắt dao ẩn nấp dưới cầu
Chằm chằm bụng giặc chém ngay một đường.
Bừng sát khí người không dám tới
Tuyết sương bay mờ tối mặt trời
Bắt tha dạ quyết không dời
Ba lần đâm áo nghĩa người trả xong.
Khí tiết lạ thẳng xông trời thẳm
Cầu đổi tên Dự Nhượng từ đây
Vua tôi nghĩa cả trọn đời
Chúng nhân, quốc sĩ khác nhau đôi đường.
Kẻ hai lòng bêu gương nhục nhã
Câu nói xưa muôn thuở xót thương
Kinh Kha, Nhiếp Chính khác phường
Cảm người hậu đãi, chẳng thương thân mình.
Mạnh khí huyết coi khinh nào đáng
Riêng mình ông xứng dạng nam nhi
Thành hoang Tam Tấn qua đây
Bên cầu như thấy bóng ai chập chờn.
Gió tây lạnh từng cơn thổi buốt
Ngựa ngập ngừng ngại bước chân lơi
Dao xưa ngắn bảy tấc thôi
Mà sao vạn trượng sáng ngời cổ kim.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Tấn Dương cuồn cuộn nước trôi
Chậu làm đầu Trí Bá bồi tiểu sơn
Báo thù không, thật đáng thương
Bề tôi Dự Nhượng đảm đương việc nầy
Sơn mình người hủi, cạo mày
Giữa đường vợ chẳng rõ hay ăn mày
Mình mang gươm ngắn nấp cầu
Chăm chăm cố sức đâm sâu thù phường
Đằng đằng sát khí ai đương
Giữa ngày không sáng, tuyết sương bay mù
Bắt, tha không đổi mấy thu
Trước khi chết đánh áo thù đủ ba
Ngút trời khí lạ cao xa
Cầu tên Dự Nhượng đó là danh ông
Vua tôi nghĩa lớn rõ lòng
Khác nhau quốc sĩ với đông người thường,
Bề tôi đáng thẹn hai phương
Nghìn xưa nghe chuyện cũng thường ngẫm ra
Không như Nhiếp Chính, Kinh Kha,
Để người nuôi dưỡng thân nhà chịu cam
Không cần nói dũng khí làm
Trượng phu cứng cỏi riêng bàn ông thôi
Đường qua Tam Tấn gò đồi
Nhìn cầu chăm chú như hồi có ông
Gió tây lạnh buốt tê lòng
Ngựa nhiều lần hí sợ không biết đường
Bảy gang chuỷ thủ đoản, trường
Sáng hoài muôn trượng tấm gương soi đời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời