1. Vừa năm Canh Tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa long câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
5. Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chưng giữ nước dân an thái bình

Kể từ Lạc Long đế kinh,
Thế cùng xem biết sự tình thấp cao.
Nhân vì biết được tơ hào
10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi.
Luận chung một tập kim thì
Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng doi cho cần
15. Già nay cũng đấng hiên ngang
Biết chưng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân duẫn mà đi
Sau thì chưa đến biết thì nói ra.
Tiếc thay hiền sĩ tuổi già
20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công
Thử cho tay thước ra dùng
Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao
Trên trời chỉn chín tầng cao
Tai nghe bằng một tơ hào biết hay
25. Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời

Dẫu hay tấn chước ngàn lời,
Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư.
Chẳng sinh phải kiếp người ta,
30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời.
Nói ra thì lộ sự đời,
...
Che nghe cho phải luỵ này,
Nói ra ám chúa bội quân
Đương thời đời trị xoay vần được đâu
35. Chờ cho nhân duẫn về sau
Đến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn
Trời sinh ra những kẻ gian,
Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây.
Quân nào thần ấy làm vày,
40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn.
Đua nhau bạo ngược làm càn,
Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay
Anh hùng gẫm được thời hay,
Xem chưng thời vận biết hay trong lòng.
45. Nam nhi có chí anh hùng,
Muốn làm tướng suý lập công chưng đời.
Thời xem tuần vận điềm trời,
Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng.
Đi tìm cho đến thánh công,
50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền.
Trong ngoài cương kỷ cho bền,
Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài.
Chờ khi chuyển đất động trời,
Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng.
55. Còn bận thì náu chưa xong,
Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là.
Đời này những quỷ cùng ma
Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền.
Trời cao đất rộng mông minh,
60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương.
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,
Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.
65. Xem chưng tuần vận cho tường,
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này.
Vua ngự thạch bàn xa thay,
Nhân ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Chim kêu vượn hót vang lừng,
70. Đường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ.
Nhân gian vắng vẻ bằng tờ
Sơn lâm bát ngát đổ nhờ khôn thay!
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn
75. Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân.
Khảm cung thời tiết mở vần,
Thực là thiên tử thánh nhân ra đời.
Anh hùng ai có chí tài,
80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi.
Tìm đi đến Bàn thạch khê,
Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng.
Nhìn đi nhìn lại cho tường,
Do nay phỏng có sinh vương đâu là.
85. Chẳng tin thì đến bản gia,
Đất sinh thiên tử xem qua địa hình.
Bốn bề phong cảnh cực thanh,
Tả long triều lại uốn vành vũ khai.
Hữu thời cửu khúc giang nay,
90. Minh Đường thất diệu ra bày tay coi
Trông xa thấy một đầu voi
Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn.
Ứng điềm thiên tử về chầu,
Tượng trời thánh đế thật âu trị dài.
95. Song thiên nhật nguyệt sáng soi,
Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu
Đến tuần hưng vượng về sau,
Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm
Khuyên người Đông Bắc Tây Nam
100. Muốn làm tướng suý thì xem sấm này
Anh hùng lượng được thời hay
Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn.
Ai nên bia tạc biển son,
Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ.
105. Nay nhờ truyền bảo sau xưa,
Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường
Tìm đi cho đến khảm phương
Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi.
Chính trung diện mạo uy nghi,
110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương.
Nhìn xem cho biết tỏ tường,
Để hoà (mà) giúp rập đế vương tuần này.
Quân thần hội họp rồng mây,
Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là.
115. Cõi tiên thế giới đất ta,
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Phò vua ra đến Tràng An,
220. Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian lại hiền.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
225. Thấy sự thời để chép vào,
Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời.
Ai mà độ lượng trí tài,
Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này.
Phò vua vực trị trợ đời,
230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần.
Vũ thời phong đại tướng quân,
Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi.
Trông ân đức rộng bằng trời,
Cả dung cho khắp thoả người tôi con.
235. Chớ nề bạch ốc chu môn,
Nam nhi có chí khoẻ khôn đều dùng,
Quân minh lại gặp thần trung,
Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai.
Trảo nha những đứng trí tài,
240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì.
Ai ai là chẳng nam nhi,
Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh.
Trông ơn đức rộng cao minh,
Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi.
245. Quân thần tướng tá giúp đời,
Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin,
Trợ phù nhà nước khoẻ bền.
Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người.
Trời sinh lão tướng giúp đời,
250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương.
Khác nào thuở trước nhà Đường,
Quân minh lại gặp thần lương mới bền.
Đời xưa những đấng khá khen,
Đời nay những đấng tôi hiền ai so
255. Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu,
Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời.
Mong ơn trên trị chưng đời,
Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu.
Sống thời ăn bổng lộc vua,
260. Thác thời ban cấp cho con thơ rày
Trận tiền hết sức, ra tay,
Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho.
Hoặc là tử trận đương cô,
Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ.
265. Quân thời cấp ruộng điền tô,
Làm cho con cháu ơn vua đời đời.
Để cho nức lòng con trai.
Đến khi có giặc cho trai liều mình.
Thấy tặc nó hội phụng kinh
270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau.
Sống thì chức trọng quyền cao,
Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang.
Lập nên giềng mối kỷ cương.
Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hoà,
275. Đâu đâu xướng thái bình ca,
Thiên thuận địa hoà, chủ quý thần vinh.
Tảo an thiên hạ thái bình,
Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều
Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều,
280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra.
Khuyên người Nam Việt trai hiền,
Ai xem cho biết để mà làm công.


Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện tiến sĩ Nguyễn Văn Bân (1868-1937), có đề Trình quốc công ký. Cụ nghè Bân sinh năm Mậu Thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa Đinh Dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc Kỳ thượng nghị viện, Tổng đốc Hải Dương.

Cụ nghè Bân ở Sơn Tây, gần làng Phùng, cùng huyện Thạch Thất với Phùng thượng thư cho nên bản này rất đáng tin cậy vì ngày xưa các cụ thường mượn sách nhau sao chép, nghĩa là bản này có thể là sao chép từ tủ sách quan thượng Phùng Khắc Khoan. Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cộng hoà, là tế tử của cụ nghè. Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng sang định cư tại Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng ông Nguyễn Thiên Thụ (định cư tại Canada) một số sách cổ, trong có bản Trình quốc công kýPhùng thượng thư ký. Năm 2010, bản này được ông Nguyễn Thiên Thụ phiên âm và công bố.

Bản này ngắn nhất so với các bản. Các bản khác dài hơn có thể là người ghi chép các bản khác nhau của Trạng Trình hoặc một trong hai ba bản là của tác giả khác. Bản này có nhiều điểm giống bản của Sở Cuồng, và là bản thứ hai của bản Sở Cuồng. Điều này cũng cho ta biết bản Sở Cuồng là bản chính. Và bản Sở Cuồng và vài bản khác vốn là hai bản mà chép chung trong một tập. Bản này dài 282 câu, nhưng chỉ giống bản Sở Cuồng 100 câu đầu, từ câu 101 đến 282 thì không giống bản nào cả.

Bản này giống phần thứ hai của bản Mai Lĩnh, có thể hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu ít nhất là có một chữ khác nhau. Tuy nhiên phần cuối bản nôm này (từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh.