15.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn

Đăng bởi Vanachi vào 11/11/2005 18:03

Ngư rằng: Sách gọi thuần dương,
Về phần con nít bệnh thường nhiệt dâm,
2555. Đã thuần dương vô âm,
Sao còn phát lãnh trầm trầm cớ chi?
Môn rằng: Tạo hoá máy đi,
Âm dương nghĩa kín mấy suy đặng rành,
Chữ âm ấy thật âm tinh,
2560. Âm tinh đâu có trong mình tiểu nhi.
Chừng nào thiên quý đến kỳ,
Tinh thông mới đặng sánh nghì dương âm.
Sách rằng thuần dương vô âm.
Thật câu chữ luận tinh âm chưa đầy.
2565. Ấy nên bệnh trẻ thơ ngây,
So cùng người lớn chỗ gây chẳng đồng,
Bảy tình vốn chẳng hại trong,
Sáu dâm ngoại cảm cũng không luận tà.
Một mai có bệnh chẳng qua,
2570. Kinh, cam, thổ, tả, tích hoà trường đông.
Cảm thời hàn, nhiệt, thử, phong,
Ngoại khoa: đậu chẩn, sang cùng đơn ban.
Vốn không tạp bệnh nhộn nhàng,
Có mười lăm chứng nguy nàn dễ coi.
2575. Tử, sinh ngoài đã lố mòi,
Nào chờ chẩn mạch hợp coi quẻ dò.

Tiểu nhi nguy chứng thập ngũ hậu
(Mười lăm chứng nguy ở trẻ con)
Dịch nghĩa:
Trên mi mắt nổi tia đỏ,
Tia đỏ chạy suốt cả con ngươi,
Mỏ ác sưng phù lên,
Kể cả có khi trũng xuống,
Mũi khô đen xạm,
Bụng to nổi gân xanh,
Mắt thường trợn ngược,
Nhìn không chuyển con ngươi,
Móng chân, móng tay đen,
Đột nhiên mất tiếng,
Lưỡi thè ra ngoài miệng,
Nghiến răng, cắn người khác,
Thở gấp, miệng ngáp như cá,
Khóc không ra tiếng,
Giun quài ra mồm, mũi,
Ấy đều là những chứng chết.
Dù cho dùng thuốc cứu ngay,
Thì mười đứa cũng chết cả mười