23.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn

Đăng bởi Vanachi vào 11/11/2005 17:50

Khí huyết quán chú thập nhị kinh, trú dạ chu nhi phục thuỷ ca
(Bài ca về vòng tuần hoàn trong một ngày đêm của khí huyết vận hành qua mười hai kinh mạch)
Dịch nghĩa:
Hiểu trình trung phủ mã đề mang,
Hoài bảo tư lương xuất thiếu thương.
Cực mục thương dương tòng thử khứ,
Gia tiên nhất trực thượng nghênh hương.

Tự thừa khấp biệt lưỡng vi mang,
Ức tích phân huề lệ đoái hương,
Quy ẩn bạch vân chuyên mại túc,
Đại bao lường tận, tiểu bao lường.

Tâm xuất cực tuyền tự thuỷ thanh,
Thân như bình diệp thiếu xung linh.
Tự tòng thiếu trạch thừa tra khứ,
Hốt thính cung nga hữu tiếu thanh.

Tình minh lưỡng mục phán phù dung,
Vũ chí âm trầm nguyệt sắc mông.
Tịch mịch dũng tuyền nhân bất kiến,
Không văn du phủ báo thời chung.

Kỷ niên hạp kiếm dược thiên trì,
Vân quyển trung xung nhập tử vi.
Tam vũ quan xung vô trú trở,
Trúc ty liêm ngoại bá lao phi.

Đồng tử hiểu tư tự diểu nhiên,
Thời thời lưu luyến khiếu âm biên,
Đại đôn nhật nguyệt thường lai vãng
Phục nhập kỳ môn hựu nhất thiên.

1535. Tiều rằng: Tạng phủ trong ngoài,
Mười hai kinh nguyệt gẫm bài thơ hay.
Hơi đi máu chạy dần quay,
Sáu bài khí huyết nghe nay mặt mờ.

Môn rằng: Khí huyết sáu thơ,
1540. Mỗi câu mỗi huyệt luôn bờ lại qua.
Lần nghe thứ lớp kể ra:
Bài đầu từ phế chạy qua đại trường.
Xung phủ đến huyệt Thiếu thương,
Mối theo hung ức, ra đường ngón tay.
1545. Thương dương cũng ngón cái tay,
Chạy lên trước mũi, tên bày Nghênh hương,
Bài nhì, vị với tỳ hương,
Thừa khấp tủa xuống dưới đường ngón chân.
Lệ đoài lên ngón cái chân,
1550. Ẩn bạch xuống ngón thẳng chừng Đại bao
Đại bao vú tả làm rào,
Bài ba tâm chủ, cùng ao tiểu trường.
Cực tuyền chỗ tột da xương,
Hữu ra ngón út, đầu đường Thiếu xung.
1555. Thiếu trạch ngón út tả thông,
Thính cung tai tả ở lồng bên tai.
Bài tư bàng quanh, thân cai,
Tình minh gốc mũi xuống dài Chí âm.
Ngón chân út tả Chi âm.
1560. Giữa bàn chân hữu lại xâm Dũng tuyền.
Dũng tuyền ấy chạy lên liền,
Đến Du phủ huyệt tả biên hữu điều.
Bài năm tâm bào, tam tiêu,
Thiên trì giữa bụng ra chiều Trung xung.
1565. Tay hữu ngón giữa: Trung xung,
Tay tả ngón cái: Quan xung trổ màu,
Quan xung tả chạy lên đầu,
Trúc ty huyệt ấy ở sau chặng này.
Bài sáu đảm với can vầy,
1570. Ra từ Đồng tử, xuống đầy Khiếu âm.
Đồng tử gò má tả cầm,
Ngón chân út tả, Khiếu âm chỗ phòng.
Ngón chân út hữu Đại đôn,
Thẳng bên vú hữu, Kỳ môn đóng đồn.
1575. Ngày đêm khí huyết xây vòng,
M ười hai kinh lạc, ngoài trong khắp hoà.
Khí như mã, huyết như xa,
Xa nhờ mã kéo, mã hoà xa đi,
Thử xem bộ sách Lý y
1580. Vẻ hình gương giá dùng thì khá tra.
Ngư rằng: Như gấm thêm hoa,
Nhớ lời đạo hữu dạy ta đành(rành?) rành.

Dạy rằng: “Muốn thấy phép linh,
Coi chừng trời đất trong hình người ta”.
1585. Đường huynh nay lại vẻ ra,
Máy trời đất nhắm trong ba hình người.
Môn rằng: Coi tấm thân người,
Mười hai chi hoá, cùng mười can sinh
Nội kinh câu chữ luận rành:
1590. “Thân tứ đại hoá hữu sinh”, phải lời.
Dung y mấy biết thời trời,
Nỡ đem thuốc độc thử chơi mạng người,
Ta thường lo sợ mạng người,
Gắng công đọc sách hơn mười năm nay,
1595. Nhiệm màu mới thấy chỗ hay,
Minh Đường thơ cổ, ngâm rày người nghe:

Minh Đường Thi
(Bài thơ về minh đường)
Dịch nghĩa:
Giáp thuộc mật, Ất thuộc gan, Bính thuộc ruột non,
Đinh thuộc tim, Mậu thuộc dạ dày, Kỷ thuộc lá lách,
Canh thuộc ruột già, Tân thuộc phổi,
Nhâm thuộc bọng đái, Quý do thận giữ,
Tam tiêu cũng gởi về ở cung nhâm,
Màng tim cùng tụ về ở cung quý.

Lại có thơ rằng
(Bài thơ về minh đường)
Dịch nghĩa:
Phổi ứng với Dần, ruột già ứng với Mão, dạ dày ứng với Thìn,
Lá lách ứng với Tỵ, tim ứng với Ngọ, ruột non ứng với Mùi,
Thân ứng với bọng đái, Dậu ứng với thận, màng tim ứng với Tuất,
Hợi ứng với tam tiêu, Tý ứng với mật, Sửu ứng với gan.