
論詩其二十一
窘步相仍死不前,
唱酬無復見前賢。
縱橫正有凌雲筆,
俯仰隨人亦可憐。
Luận thi kỳ 21
Quẫn bộ tương nhưng tử bất tiền,
Xướng thù vô phục kiến tiền hiền.
Tung hoành chính hữu ,
diệc khả liên.
Dịch nghĩa
Quẫn bước theo nhau sẽ lâm vào đường cùng không phát triển tiếp được,
Xướng hoạ thơ không thể như các hiền nhân (tức các nhà thơ lớn) đời trước.
Tung hoành cốt là có bút lực ngạo tới mây,
Cúi ngẩng theo người khác thật là đáng thương.
論詩其二十一
Luận thi kỳ 21
Luận thơ kỳ 21
窘步相仍死不前,
Quẫn bộ tương nhưng tử bất tiền,
Quẫn bước theo nhau sẽ lâm vào đường cùng không phát triển tiếp được,
唱酬無復見前賢。
Xướng thù vô phục kiến tiền hiền.
Xướng hoạ thơ không thể như các hiền nhân (tức các nhà thơ lớn) đời trước.
縱橫正有凌雲筆,
Tung hoành chính hữu lăng vân bút,
Tung hoành cốt là có bút lực ngạo tới mây,
俯仰隨人亦可憐。
Phủ ngưỡng tuỳ nhân diệc khả liên.
Cúi ngẩng theo người khác thật là đáng thương.
Bài này luận về việc xướng hoạ thơ, đại ý nói thơ thể loại này sẽ bị bó buộc không thể tự do biểu thị ý mình. Cổ nhân có truyền thống lấy thơ để hoạ đáp lẫn nhau. Nguyên ban đầu việc hoạ thơ chỉ cần hoạ ý mà không nhất thiết phải theo thể thức và vần của bài xướng, về sau mới có thêm quy tắc phải hợp vần và gọi là hoạ vần. Hoạ vần có hai loại, đồng vận và thứ vận. Đồng vận là chỉ cần dùng vần của bài xướng mà không cần theo thứ tự, thứ vận là cần theo đúng thứ tự. Cách thức này khởi nguồn từ
Nguyên Chẩn 元稹 -
Bạch Cư Dị 白居易,
Bì Nhật Hưu 皮日修 -
Lục Quy Mông 陸龜蒙 từng hoạ đáp nhau theo cách này, đến đời Tống thì có
Tô Thức 蘇軾 -
Hoàng Đình Kiên 黃庭堅 và thứ vận từ đó trở thành thịnh hành. Nguyên Hiếu Vấn là người tôn trọng lối thơ tự nhiên nên phản đối lối thơ này.
Chú thích: