關海

樁木重重海浪前,
沉江鐵鎖亦徒然。
覆舟始信民猶水,
恃險難憑命在天。
禍福有媒非一日,
英雄遺恨幾千年。
乾坤今古無窮意,
卻在滄浪遠樹煙。

 

Quan hải

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.

 

Dịch nghĩa

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển,
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế.
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước,
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời.
Hoạ phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày,
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm.
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận,
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.


Bài này nói về Hồ Quý Ly chống Minh giỏi nhưng không được dân ủng hộ, do đấy cuối cùng phải thất bại.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Lớp lớp cọc trồng trước sóng khơi,
Sắt chìm phong toả xích nơi nơi.
Lật thuyền mới biết dân là nước,
Cậy thế hiểm không bằng mệnh trời,
Hoạ phúc có duyên không bỗng chốc,
Anh hùng để lại hận nghìn đời.
Xưa nay trời đất vô cùng ý,
Về ẩn Thương Lang chốn cuối trời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Cọc gỗ trùng trùng chắn sóng khơi
Xích giăng lớp lớp, cũng công toi
Lật thuyền mới ngộ dân là nước
Cậy ải đâu qua mệnh ở trời
Hoạ phúc gây nguồn đâu một chốc
Anh hùng nuốt hận đến muôn đời
Xưa nay trời đất khôn lường được
Về náu bên rừng khói sóng chơi

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]