Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng chưa có nguyên tác, xin mời xem 2 bản dịch.

Nếu bạn có thông tin về nguyên tác của bài thơ, xin mời gửi vào bình luận ở dưới.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Rồng thiêng dậy, bay rợp Lam Kinh
Giáo trời chỉ, dẹp tan bắc binh
Dựng nước thành công nhiều khó nhọc
Miền Tây sông núi hẳn anh linh
Ôi! Vua ta tài thánh vũ
Đứng lên bốn phương kinh dinh
Vận nước gian truân, khổ tâm lo tính
Thấy lẽ tất yếu của trời càng quyết chí để nghiệp thành
Nhờ thế ngày nay Hồ Việt đưọc một nhà, mà núi này cũng lưu danh muôn thuở
Khi nghĩa quân mới dấy là lúc thế giặc đương hăng
Anh hào cả nước lưa thưa như lá thu gặp sương
Chí nuốt giặc Ngô, ai Chủng, ai Lãi
Mưu dựng nghiệp Hán, ai Bình, ai Lương
Vua ta ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sáng
Vợ con lưu lạc, quân sĩ tha phương
Trong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượng
Lấy giáo sắt làm áo mặc, lấy rễ lau làm quân lương
Chí rộn ràng lo khôi phục, lòng u uất thật khôn lường
Tưởng núi này lúc ấy khác nào đất Mang Đăng khi Hán hoàng khởi nghiệp
Biết người, biết mình, khi mềm, khi mạnh
Chờ thời, rình mệt, giấu nhọn, che sắc
Gôi củi nằm gai, ngậm cay nuốt đắng
Lo rửa nhục trước, giành lại quê hương
Tưởng núi này khi đó khác nào đất Cối Kê thời Việt vương ẩn náu
Thế rồi, thu nhặt tàn quân, nuôi dưỡng ân cần
Trong sửa chiến cụ, ngoài giả hoà thân
Quyên tiền mộ lính, giết voi khao quân
Ai cũng thân người trên, chết cho người trưởng, cố sức để đền ân
Từ đấy, luyện quân kén tướng, đánh địch ra kỳ
Chết vinh hơn sống nhục, biết quân ta dùng đuợc
Lấy của giặc đánh giặc, thu quân lương vũ khí
Vẹn toàn vững kế, một mũi tên không để phí
Cầm Bành rạp đầu dâng đất
Phương Chính khiếp vía chạy dài
Bèn giữ hiểm để lập công
Lại nhiều phương lừa đánh địch
Đêm lửa đốt, ngày cờ bay
Sớm chiếm Đỗ Gia, giành thế tiện trên núi ấy
Trước vượt Khả Lưu, đánh đắm địch trên sông này

Nhưng thịnh đức của vua ta ngày nay, chỉ quy mô rộnh lớn của Hán Cao Tổ mới sánh kịp
Còn như Câu Tiễn, ngoài chí phục thù là đáng kể, thì trong muôn phần không so được với vua ta
Đến như: uy thần chẳng giết, đức lớn hiếu sinh
Nghĩ kế nước nhà trường cửu
Tha cho mười vạn hàng binh
Gây lại hoà hảo hai nước
Dập tắt chiến tranh cho muôn đời
Địch phải theo thượng sách: hai nước vẹn toàn dân được an ninh
Như thế thì thịnh đức của vua ta Cao tổ nhà Hán sao sánh kịp
Vua ta phải sánh ngang hàng với hai đế ba vương lừng danh thuở trước
Than ôi! Xưa nay đi lại, trăm đời nên nghĩ
Nghiêu nổi dậy từ Đường hầu, Thuấn khởi dậy tự hàn vi
Thành Thang dấy nghĩa nơi đất bạc, Thái vương khởi binh tại núi Kỳ
Nhiều hoạn nạn là nền dựng nước
Lắm lo toan là gốc trị vì
Biến cố trải nhiều thì suy nghĩ sâu
Mọi việc lo trước thì thành công kì
Nối nghiệp đế vương, không thể khác thế
Vậy thì vua ta dựng nghiệp thật đã tự núi này trở đi
Công cao đức cả của vua ta cũng sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đời
Bèn cúi đầu chắp tay, dâng lời ca rằng
Trời sinh vua thánh, đất dấy nghiệp vương
Càn khôn mờ mịt, vận hội phi thường
Nhìn Linh Sơn cao vút, nhớ những ngày gian khổ
Vỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãng
Xin ghi thịnh đức vào đá, lưu truyền bất hủ
Ngàn vạn đời sau, vẫn cùng trời đất dài lâu.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
63.50
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh

Rồng thiêng bay chừ trên Lam Kinh,
Giáo trời chỉ chừ ải Bắc yên.
Sáng nghiệp thành công bao khó nhọc,
Núi sông miền Tây thật là thiêng!
Ôi! Vua ta tài thánh võ,
Gánh việc bốn phương kinh doanh,
Lao tâm khổ tứ, vận nước gian truân.
Đã do trời mà biết thời,
Lại cố chí để công thành.
Nhờ thế ngày nay Hồ-Việt mới hoá một nhà,
Mà núi này được thiên cổ lưu danh.
Khi nghĩa binh mới nổi, thế giặc hoành hành,
Cả nước anh hào như lá thu sương.
Chí nuốt Ngô chừ, ai là Chủng? ai là Lãi?
Mưu hưng Hán chừ, ai là Bình? ai là Lương?
Vua ta giấu vết ở núi này, đành nín hơi để náu nương.
Vợ con lưu ly, quân sĩ tan tác,
Tuy khốn đốn mà lại hay, vì có điều sắp vẻ vang.
Mang giáp trụ để che thân, lấy củ rau để làm lương.
Chí hăm hở lo toan, lòng căm tức chẳng hề quên.
Tưởng núi này lúc bấy giờ chừ khác nào núi Mang Đãng của vua Hán.
Bởi biết người biết mình, hay yếu hay mạnh.
Đợi thời chờ dịp,
Giấu sắc giấu tài.
Ăn thường nếm mật,
Ngủ thường nằm gai.
Lo rửa nhục cũ, khôi phục đất xưa,
Tưởng núi này lúc bấy giờ chừ há chẳng giống núi Cối Kê dung Việt Vương hay sao?
Rồi thu thập tàn quân, nuôi vỗ ân cần,
Trong rèn chiến cụ, ngoài giả hoà thân,
Bỏ vàng mộ lính, giết voi khao quân.
Ai cũng mến vua mà liều chết,
Ai cũng muốn ra sức để đền ân.
Thế rồi luyện binh, kén tướng, mưu cao như thần,
Sống nhục thà thác vinh, biết quân ta khả dụng.
Lương thực khí giới do giặc cấp cho mình,
Vạn toàn quyết thắng, một mũi tên không coi khinh.
Cầm Bành dập đầu để hiến đất,
Phương Chính đứt hơi mà hồn kinh.
Liền giữ hiểm để lập công, lại dùng mưu để lừa địch,
Đêm thì đốt lửa, ngày thì kéo cờ.
Chiếm Đỗ Gia để tranh chỗ lợi,
Qua Khả Lưu vượt sông để đánh đắm quân thù.
Sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay.
Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây.
Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay.
Gạo nước đón rước,
Người theo đường đầy.
Hào kiệt nghiến răng vì căm giận,
Phụ lão nức nở thấy ngày nay.
Tiếng quân ta ngày càng vang dậy,
Giặc mỏi mệt ngày càng thua chạy.
Trận Thị Cầu như ổ kiến làm đê vỡ,
Trận Tốt Động như gió mạnh gãy cành cây.
Trần Hiệp, Lý Lượng như dưới hố cọp sa,
Vương Thông, Mã Kỳ như vạc sôi cá nhảy.
Muôn dặm non sông thu phục lại,
Đông Đô phường phố vẫn y nguyên.
Lúc bấy giờ khác nào Hán Cao bốn mặt vây Cai Hạ.
Thế mà lòng tham của giặc còn không nén,
Đốc quân cả nước lại kéo đến.
Chữa cháy thêm dầu, vui hoạ thích tai.
Nên Liễu Thăng bỏ mạng mà Chi Lăng máu chảy,
Mộc Thạnh trốn đêm mà Lãnh Câu đầy thây.
Viện binh hai đạo chưa kịp trở gót mà đại bại,
Thành giặc các nơi không đổ máu mà mở cửa ra hàng.
Vẫy đuôi xin tha, thảm thiết kêu than.
Lúc bấy giờ há lại chẳng giống Câu Tiễn vây Ngô Vương ở đài Cô Tô hay sao?
Tuy nhiên quy mô to lớn của Hán Cao cũng giống như đức thịnh của vua ta ngày nay,
Còn Câu Tiễn chỉ lo thoả chí phục thù há lại có thể muôn một sánh tày.
Đến như thần võ không giết,
Đức lớn hiếu sinh.
Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước,
Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.
Sửa hoà hiếu cho hai nước,
Tắt muôn đời chiến tranh.
Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh.
Như thế thịnh đức của vua ta, há Hán Câo có thể sánh được, mà phải cùng khen với Nhị Đế, Tam Hoàng kia.
Than ôi! Từ xưa đến nay,
Trăm đời đổi thay.
Nghiêu từ Đường hầu Thuần từ hàn vi,
Thành Thang mở đầu từ núi Bạc,
Thái vương dời sang đất Kỳ.
Thế là bởi tai nạn nhiều là gốc dựng nước, lo nghĩ nhiều là cái nền mở nghiệp thánh.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
25.00
Trả lời