15.00
Nước: Việt Nam (Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn)
1 bài thơ

Tác giả cùng thời kỳ

- Nguyễn Trãi (381 bài)
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (267 bài)
- Lê Thánh Tông (312 bài)
- Đoàn Thị Điểm (26 bài)
- Đặng Trần Côn (17 bài)

Dịch giả nhiều bài nhất

- Đông Châu (1 bài)
- Lương Trọng Nhàn (1 bài)
Tạo ngày 10/06/2018 13:51 bởi tôn tiền tử
Nguyễn Phong 阮灃 người làng Kiệt Đặc, tự Tuyết Đường, hiệu Thiềm Tẩu. Ông tổ của ông được phong là Từ Quảng hầu, mộ ở dưới núi xã Hậu Quan. Tương truyền đây là nơi đất phát tích của ông, đến nay vẫn còn. Cha của ông đỗ hương cống, được tặng phong chức Thái bảo, sinh được 3 con trai, con trưởng làm tri huyện Gia Lộc, con út làm chức Tri bạ, phong làm vệ uý. Ông là con thứ hai.

Ông sinh ra thông minh, lúc lên 4 tuổi, nghe anh đọc sách ông rất ham thích. Cha thấy ông minh mẫn, lấy sách của anh cho đọc. Lên 6 tuổi dạy cho âm luật làm văn, lên 7 tuổi biết làm văn. Lúc ông 14 tuổi, thi một lần đỗ Hương cống, cùng khoa với cha, tên ông lại ở trên. Ngày vào ăn yến, ông đứng mà không ngồi, quan trường lấy làm lạ hỏi, ông đem sự thực trình bày, liền cho đổi chỗ ngồi. Lúc lớn lên, ông thích chơi non…