Thời gian bóng câu qua cửa. vèo một cái đã thấy mình đứng bên kia dốc cuộc đời. đưa tay bóc tờ lịch cuối, có ai không thảng thốt giật mình. Nói gì đến Nguyễn Ngọc Hưng – con người “luôn ước mơ hạnh phúc mà chẳng mấy khi được hưởng một cách thật sự”. Đã hơn hai mươi năm kể từ ngày anh lâm trọng bệnh (1983), anh nằm đó cảm nhấn sự sống từng ngày qua đi trong đau đớn. Anh khát sống đúng nghĩa, được hưởng cái quyền làm người và được tận hiến cho cuộc đời này. Chính vì vậy, hơn ai hết anh thấy buồn, thấy đau một khi:

“Mỏng manh tờ lịch cuối năm

Nhẹ tênh rơi xuống chỗ nằm…

Vọng âm”

          Vâng, tờ lịch cuối năm “mong manh” rơi xuống “nhẹ tênh” gần như không thanh âm, không trọng lượng, thế nhưng người thơ lại nghe bao “vọng âm”. Sức nặng của ngôn từ  có được nhờ câu bát bị tách chẻ, tạo nên một dòng thơ đặc biệt, đầy ám ảnh.

Cứ ngỡ sau dòng thơ ấy, ta sẽ nge thấy tiếng “động” cụ thể nào đấy của sự sống. Thế mà… “Thoảng như hơi gió vương trầm / Thoảng như sương khói môi thầm thĩ xa”. Thì ra anh nghe bằng trái tim hôi hổi nóng kỷ niệm của một thời quá vãng. Cái điều tưởng như mơ hồ “thoảng như gió”, “thoảng như sương khói” ấy lại rất thật. Đó là những “vọng âm” của hương vị cuộc sống, của tình yêu mà anh không còn cơ may đón nhận và tận hưởng.

Vẫn biết thời gian là ước lệ thế nhưng tờ lịch cuối năm đã đem lại cho Nguyễn Ngọc Hưng những suy tư, trăn trở đến mức dày vò, đau đớn. Sau những vọng âm hư thực là một sự thật “nghiệt ngã”:

“Mơ màng lật lại trở qua

Ngày chia hai nửa trẻ - già đây ư?

Nửa xanh chớm nhạt ngôn từ

Nửa vàng như đã lại như chưa vàng…”

           Những câu thơ day dứt đến buồn thương bởi nó ẩn chứa cả một niềm trắc ẩn. Nếu ta thảng thốt giật mình trước thời gian qua mau thì với Nguyễn Ngọc Hưng còn là sự tự ý thức về thân phận trong cái quy luật của cuộc đời. Chàng thanh niên trai trẻ ngày nào giờ đã ngoại tứ tuần. Có lẽ hơn ai hết, anh hiểu hai nửa của đời mình: một nửa mãi mãi ở tuổi đôi mươi, một nửa đang già đi theo thời gian khắc nghiệt. Một câu hỏi buồn đi liền với những suy tư, ngậm ngùi:

“Nửa xanh chớm nhạt ngôn từ

Nửa vàng như đã lại như chưa vàng…”

Và thật sự cuộc đời anh là thế! Bởi “cái cuộc tôi đi tìm tôi của Hưng là một hành trình không cây số, không phiêu lưu, lang bạt nơi cõi trần ai để tìm trong lánh đục đời mình, để nghiệm đời mình, mà cuộc hành trình của Hưng là một cuộc kiếm tìm lặng lẽ không để lại dấu chân. Anh tự đào sâu vào lòng mình để làm cuộc du hành không nhân ảnh” (Mai Bá Ẩn). Và như thế, làm sao anh không chạnh nghĩ về thơ, về thân phận.

Sau những va đập mạnh của từng đợt sóng xúc cảm, dường như người thơ đã lấy lại được sự thăng bằng. Con chữ không còn giằng xé, vật vã “lật lại trở qua”. Giọng thơ đã trở nên sâu đằm và lắng lại trong một dòng suy tường:

“Cháy thầm trong lửa thời gian

Buồn vui cũng hóa tro than vô hình

Cuối năm mình tiễn tuổi mình

Mỏng manh tờ lịch rập rình…

Gió bay!”

“Cháy thầm”. Quả thật anh đã lặng lẽ cháy hết mình cho thơ – thơ cứu rỗi linh hồn anh – trong “ngọn lửa thời gian”. Vẫn biết tất cả “buồn vui cũng hóa tro than vô hình”. Chúng ta, theo quy luật của thời gian rồi cũng chỉ còn là một nắm “tro than vô hình” ấy. Thế nhưng tâm hồn con người là toàn vẹn và bất tận. Những câu thơ cuối phảng phất một chút “thiền”, gợi cho ta nghĩ về cái hữu hạn của kiếp người mong manh sương khói. Và ta hiểu hơn cái cảm giác trống vắng của Nguyễn Ngọc Hưng khi anh giáp mặt với thời gian, không gian một ngày “cuối năm mình tiễn tuổi mình”. Dường như đã “rập rình” một tiên cảm không vui…

Cái gì đến rồi cũng sẽ đến. Tờ lịch cuối năm mỏng manh rồi sẽ theo gió cuốn bay. Thế nhưng Nguyễn Ngọc Hưng đã kịp đóng đinh thời gian trong trang viết của mình. Và nói như nhà văn - nhà thơ Vũ Tú Nam: “Thời gian - thời gian vô cùng và hữu hạn / Miếng da lừa dài ngắn được bao lâu? / Tuổi tác đến qua từng chặng đường hy vọng / Cái vui gần thường át nỗi lo âu…” (Thời gian).

Nguyễn Mậu Hùng Kiệt
(Rút từ tập thơ “Những khúc ca trên cỏ” của Nguyễn Ngọc Hưng)

"Điên để trắng và đen không đảo ngược
Điên để tình và hận mãi song đôi"
(Đoàn Thị Lam Luyến)