Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Cận đại
Từ khoá: thầy đồ (11)

Đăng bởi Phụng Hà vào 15/02/2014 19:47, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 15/02/2014 22:02

Bốn cóng kê giường;
Vài chồng cặp sách.

Cơm trắng canh ngon;
Ghế cao chiếu sạch.

Chữ thánh phù;
Câu thiên tích.


Chậu thau rửa mặt, tầm váo tầm vênh;
Điếu sứ long đờm, cóc ca cóc cách.

Thần Cao Kỵ xôi gà tuỳ thích, ông đã nên ông;
Bụt Nam Sang oản tẻ chẳng từ, khách thời mặc khách.

Nguyên phù thầy đồ dã giả:
Râu ria nhẵn nhụi;
Mặt mũi ngông nghênh.

Văn pha “Nguyên mặc”;
Sách học “Quan hành”.

Chạy gạo chạy tiền, thất điên bát đảo;
Làm gà làm vịt, tứ đốm tam khoanh.

Số tử vi tuần triệt đương đầu, qua vòng vận hạn;
Đất văn học thần đồng phụ nhĩ, may bước công danh.

Nhiên nhi:
Mình lính tính quan;
Khôn nhà dại chợ.

Chơi đã hay ranh;
Cạnh còn mắc hớ.

Vài khoa thi hỏng xót ruột tiền cơm;
Mấy tháng công non, bấm gan thóc nợ.

Vách ông Khổng còn hòm khoa đẩu, mở một vài con;
Ngõ thầy Nhan treo túi đan biều, bảo dăm ba đứa.

Nón sơn úp ngực, đi liểu đi liều;
Bút thuỷ cài tai, sớn sơ sớn sở.

Nghĩ sểnh nhà ra thất nghiệp, cũng bật như cười;
E nằm mát ăn bát đầy, ai nuôi không hở?

Rằng tôi nhà chủ;
xin rước thầy ngồi.

Trầu nước đoạn;
Rượu chè rồi;

Bàn tiền đốn;
Tính cơm nuôi.

Chủ rằng đạo thánh là đạo rộng;
Thầy rằng tuỳ ông còn tuỳ tôi!

Mặt chữ điền vác hẳn lên trên, nết đâu có nết!
Chiếu hàm trượng vắt ngay ngồi giữa, ngôi đã nên ngôi.

Mỹ hĩ tai:
Thầy đồ thầy lề;
Học trò học troẹt!

Nghịch như ma;
Đánh như két.

Bộ Sử đầu;
Pho Dương tiết.

Mẹo hỏi lục kỳ;
Bài ra tam kiệt.

Đô đô bình trượng ngã;
Thiết thiết phản nhân thiết.”

Chữ tứ thể lầm vài bốn lối, nét cứ như đanh;
Sách thập khoa quên đủ mười bài, văn trơ như thép.

Mô, tê, răng, rứa;
Giả, dã, chi, hồ.

Hoặc cầm roi nhi quát tháo;
Hoặc nghe sách nhi gật gù.

Sừ tiên ban, sứ tiên cung”, bắt khoan bắt nhặt;
Tiền diệc tặc, hậu diệc tặc”, tiếng nhỏ tiếng to.

Nước chè tầu uống một vài hơi, mặt cán tàn chi thẳng;
Thuốc lá tỉnh hút dăm ba điếu, đầu tán lọng chi rù.

Nhĩ kỳ:
Xem sách xem văn;
Chấm bài chấm đối.

Lên mặt thầy, sổ tựa băm bầu;
Bưng mắt chủ, khuyên như lòi tói.

Hạ bút xuống tô tô dạm dạm, mực trát đen sì;
Giở bài ra đọc đọc ngâm ngâm, son hoà đỏ chói.

Lương nguyệt đốn lại nài nhất đệ, bàn mỏng bàn dày;
Tiền hương khoa toan bổ đồng môn, thu chầy thu cối.

Dĩ nhi:
Khăn bỏ đầu rìu;
Quần xoay lá toạ.

Ôm bụng nằm mèo;
Nhe răng nói quạ.

Cầm quyển sách ngủ gà ngủ gật, đầu canh hai đã chực đi nằm;
Ra tiệc ngồi mắt trước mắt sau, cỗ bàn nhất lại toan đánh cả.

Cổ cò ngóng gái, “phụng thỉnh như lai”;
Tay vẹt vẽ bùa, “phó lô thiêu hoá”.

Cũng có lúc:
Việc làng việc họ;
Về cửa về nhà.

Bàn giang đởm;
Tính trù trà.

Thầy nài nẫm thêm dăm tiền nữa;
Chủ kèo cò đưa mấy đồng ra.

Ruột tượng thắt lưng, nguyên đồ khố rận;
Khăn tay giắt rốn, rặt giống cau già.

Cực nỗi người mặt nước chân mây, miếng cơm chểnh mảng;
Giở truyện chủ đầu cua tai muỗi, chén rượu khề khà.

Diệc hoặc:
Nhân khi nghỉ mát;
Nhẹ bước thanh nhàn.

Ả cuối ả đầu chi loại;
Tổ tôm tổ tép chi gian.

Bạch định, thập hồng, chèo đò Phó Duyệt;
Xuyên tâm, thượng mã, nổi trống Hà Nam.

Toét mắt được gì, đã lờ đờ như mất khố;
Cúi đầu về thẳng, diệc đủng đỉnh như tựu trường.

Đánh trống qua cửa nhà sấm;
Đem chuông đi đấm nước người.

Gắt như con khỉ;
Cười ngỡ đười ươi.

Rượu bứ cung thang, múa ba hoa chi mép;
Văn gàn bát sách, rung chữ ngũ chi đùi.

Tốt vậy thay!
Vị nghiễm hương sư;
Quyền long giáo dưỡng.

Dở lính dở quan;
Vừa thầy vừa tráng.

Ba chìm bảy nổi, ngông dại ngông càn;
Chín giận mười lành, nhớn nhơ nhớn nhác.

Chữ nghĩa sau;
Công nghĩa trước.

Há phải rằng là...;
Thôi thì bất nhược!

Gạt nước mắt khóc thầm cùng vũ trụ;
Trách trời xanh bạn với bút nghiên chi?

Hở hàm răng cười vụng với giang san;
Đem mặt trắng vẫy vùng son phấn nước!

Nỡ trừ công:
Nhất nhị như tam hề, thường tân nguyên đán;
Nhị tứ như bát hề, y phục công dung.

Thầy cậy khôn, một ly một tính;
Chủ sợ tốn, ba cọc ba đồng.

Võng đào khiêng chấm đất chi lưng, thực đài chửa chú?
Rượu cúc toét cù lì chi miệng, sao láo với ông?

Rõ ràng quốc sĩ;
Thực đấng anh hùng.

Phù khởi tích nhật chi đi dạy, học giả;
Diệc bất quá nhất anh đồ ngông, dã tai.

Viên tòng nhi ca chi viết:
Ê thầy đồ chi hữu tác hề.
Khướng chữ tốt nhi văn hay.
Truyện Thuý Kiều kỳ đọc ngược hề,
Kinh Tam tự kỳ biết ngay!
Thi nhân chính ư khuyên điểm hề,
Chấn thiên oai ư roi mây.
Ký lễ sinh chi phất nhược hề,
Thành kỳ mục chi nan tầy.
Hễ nhà chủ chi có nuôi hề,
Tấc ngất ngưởng nhi vi thầy.
Hễ nhà chủ chi... đếch nuôi hề,
Rồi ông xem hộ chúng bay!...


Khi còn hàn vi, Nguyễn Khuyến có mở trường dạy học. Thấy có nhiều người ngang nhiên đứng ra làm thầy đồ, mà học vấn tầm thường, tính khí lại ngông nghênh, ông làm bài phú này để chế giễu.

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]