Lầm tưởng thư hương, mắc mưu bợm Sở,
Thương thay phận bạc trúng kế con buôn.
(Câu 991-1122)


Vực nàng vào chốn hiên tây
Cắt người coi sóc, rước thầy thuốc men
Nào hay chưa hết trần duyên
Trong mê đường đã đứng bên một nàng
995. Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao!
Số còn nặng nghiệp má đào
Người dầu muốn quyết, trời nào đã cho?
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
1000. Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.
Thuốc thang suốt một ngày thâu
Giấc mê nghe đã giầu giầu vừa tan

Tú Bà chực sẵn bên màn
Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
1005. Một người đễ có mấy thân!
Hoa xuân đương nhuỵ, ngày xuân còn dài
Cũng là lỡ một lầm hai
Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa!
Lỡ chân trót đã vào đây
1010. Khoá buồng xuân để đợi ngày đào non
Người còn thì của hãy còn
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà
Làm chi tội báo oan gia
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
1015. Kề tai mấy nỗi nằn nì
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi
Vả trong thần mộng mấy lời
Túc nhân âu cũng có trời ở trong
Kiếp này nợ trả chưa xong
1020. Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau?
Lặng nghe thấm thía gót đầu
Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này
Được như lời thế là may
Hẳn rằng mai có như vầy được chăng?
1025. Sợ khi ong bướm đãi đằng
Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
Mụ rằng: Con hãy thong dong
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
Mai sau ở chẳng như lời
1030. Trên đầu có bóng mặt rời rạng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi
Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
1035. Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nủa cảnh, như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
1040. Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
1045. Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

1055. Chung quanh những nước non người
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
Ngậm ngùi rủ bức rèm châu
Cách tường nghe có tiếng đâu hoạ vần
Một chàng vừa trạc thanh xuân
1060. Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh
Bóng nga thấp thoáng dưới mành
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai
1065. Than ôi! Sắc nước hương trời!
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây!
Giá đành trông nguyệt trên mây
Hoa sao, hoa khéo đoạ đày bấy hoa?
Nỗi gan riêng giận trời già
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
Song thu đã khép cánh ngoài
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình
Cám lòng chua xót, lạt tình chơ vơ
Những là lần lữa nắng mưa
Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
Đánh liều nhắn một hai lời
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân
Mảnh tiên kể hết xa gần
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài
Tan sương vừa rạng ngày mai
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang

1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi
Mở xem một bức tiên mai
Rành rành “tích việt” có hai chữ đề
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành
Tường đông lay động bóng cành
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!
Lặng ngồi lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi!
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn?
Dầu khi gió kép mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng can cớ gì!

Nghe lời, nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản gì được thân
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn
Đêm thu khắc lậu canh tàn
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương
Lối mòn cỏ lợt mùi sương
Lòng quê đi một bước đường một đau


 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Thơ cảm tác

-TRƯỚC LẦU NGƯNG BÍCH

Buồn trông cửa bể buổi chiều hôm
Thấp thoáng xa xa một cánh buồm
Ngọn nước mới sa kề nội cỏ
Cánh hoa trôi dạt cạnh bờ mom
Mây bay mặt đất lòng man mác
Gió cuốn cuối ghềnh dạ sắt son
Tiếng sóng ầm ầm nào có biết?
Trước lầu Ngưng Bích lệ sầu tuôn...

Thiềng Đức - 17/12/2006


(theo Truyện Kiều từ câu 1047 - 1054)
-Một chân lí đã "ngộ" ra và tôn thờ:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ Tài"
Nguyễn Du
25.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Phân tích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã khắc hoạ được tâm trạng buồn tủi, đau đớn và tủi nhục của Thuý Kiều, đồng thời thể hiện tâm trạng chung thuỷ son sắc và sự nhân hâu, hiếu thảo của Thuý Kiều.

Bị Mã Giám Sinh làm nhục, Tú bà bắt ép làm gái lầu xanh, Kiều vô cùng tủi nhục và đã tự vẫn để dứt nợ hồng nhan, nhưng lại không chết. Sợ mất vốn, Tú bà liền đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích nhằm che giấu sự qua lại dòm ngó của mọi người và cũng để thực hiện âm mưu mới. Tại đây Kiều bị giam lỏng, chỉ có một mình tại lầu Ngưng Bích hiu quạnh. Khủng cảnh bốn bề bát ngát, mênh mông càng làm cho Kiều buồn não. Để diễn tã nỗi buồn của Kiều Nguyễn Du không trực tiếp tả Kiều mà ông tả cảnh, từ đấy lại thấy được nỗi buồn của Kiều được nhân lên bội phần.

Ngay từ câu đầu ta đã thấy được hoàn cảnh tội nghiệp của Kiều. Lầu Ngưng Bích đã chôn chặt một cô gái đang tuổi thanh xuân như Kiều. Lẽ ra thời điểm này Kiều phải được hạnh phúc, đi đó đây, tận hưởng tuổi tuổi thanh xuân, lứa tuổi đẹp nhất của một cô gái. Đã bao đêm Kiều trằn trọc, cô đơn với nỗi trống trải, buồn tủi và sợ hãi. Nguyễn Du đã chọn thời gian một đêm trăng để miêu tả tâm trạng Kiều. Ngồi trên lầu cao nhìn ra xa bốn bề bát ngát, Kiều thấy dãy núi mảnh trăng như ở cùng bức tranh, cảnh rất đẹp nhưng Kiều thì càng buồn tủi. Núi và trăng được ở chung một bức tranh còn Kiều và Kim Trọng lại phải cách xa nghìn trùng. Kiều lại càng buồn não hơn. Lại những cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia, tất cả như mở rộng không gian ra nhiều phía, càng tô đậm sự cô đơn của Kiều. Cảnh ấy tình ấy làm cho lòng Thuý Kiều như tan nát, càng thấm thía cãi bẽ bàng của thân phận.

Trong khung cảnh vắng lặng không một bóng người, không một tâm hồn thân thuộc bầu bạn, cái đau khổ tủi nhục vẫn cận đó thì Kiều nghĩ đến Kim Trọng, và sau đó nghĩ đến mẹ cha. Có người bảo rằng lẽ ra Kiều phải nghĩ về mẹ cha trước thì mới đúng là đứa con hiếu thảo. Thế nhưng có phải Nguyễn Du vô tình quên mất điều này và sự sắp xếp đó là vô tình hay có ý khác? Nguyễn Du lại có một ý khác. Kiều đã bán thân mình để cứu mẹ cha, đó là một sự hi sinh quả to lớn của Kiều cho cha mẹ, do đó có thể nói Kiều đã phần lớn làm được bổn phận người con khi hi sinh hạnh phúc cả đời mình. Kiều đã vô cùng đau khổ khi cân nhắc bên tình bên hiếu để rồi cuối cùng Kiều quyết định làm tròn chữ hiếu:

Đệ lời thề hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Kiều luôn ám ảnh, mặc cảm phụ tình Kim Trọng, cho dù nếu thời gian có trở lại Kiều sẽ vẫn làm như thế. Đó là lí do tại sao Kiều lại nhớ đến Kim Trọng đầu tiên. Từ khi bị Mã Giám Sinh làm nhục và giờ lại bị ép làm gái lầu xanh, nỗi đau đớn lớn nhất là Thuý Kiều không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa. Do đó việc để Thuý Kiều nhớ Kim Trọng trước tiên là hợp logic tình cảm. Nhớ Kim Trọng, Kiều nhớ đến lời thề của tình yêu: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, rồi Kiều lại đau đớn nghĩ đến cảnh Kim Trọng đang khổ sở, buồn đau chờ mong bóng dáng mình:
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Trong khi đó mình lại đang bên trời góc bể bơ vơ. Câu thơ tấm son gột rửa bao giờ cho phai còn diễn tả tấm lòng son sắt của Kiều dù bị vùi dập nhưng vẫn mãi không phai mờ cũng như tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng là khôn nguôi và luôn còn mãi.

Bốn câu thơ tiếp theo Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Kiều nhớ đến cha mẹ. Lòng Kiều ngập tràn thương xót khi nghĩ đến cảnh cha mẹ sớm chiều đau đáu mong chờ tin con. Rồi Kiều lo lắng không ai phụng dưỡng, lo chăm sóc cha mẹ thay mình. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, những điển cố sân Lai, gốc tử để diễn tả tấm lòng hiếu thảo và niềm nhớ thương chạ mẹ của Kiều. Từ khi Kiều bị đưa đi xa nhà sân Lai cách mấy nắng mưa, mưa nắng đã làm thay đổi cảnh vật quê nhà ít nhiều, gốc tử đã lớn vừa người ôm chứng tỏ thời gian Kiều đi cũng đã khá lâu. Do đó mà Kiều lại lo cha mẹ mình sẽ thêm già yếu, càng nghĩ Kiều càng xót xa cho cha mẹ.

Có thể nói tám câu thơ độc thoại của Kiều ngắn gọn nhưng có giá trị nghệ thuật lớn lao. Nguyễn Du chú trọng ngôn ngữ độc thoại của nhân vật từ đó bộc lộ được tình cảm của nhân vật. Tám câu thơ cuối cũng tả tâm trạng Kiều nhưng bằng cách khác: tả cảnh ngụ tình. Sau khi thương nhớ, lo lắng cho người thân, người yêu mình, Kiều mới quay lại thực tại và càng đau đớn hơn cho số phận, tương lai mình. Nhìn cảnh trống trải, xa vắng mà chua xót thay! Mỗi câu thơ như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng lắng sâu trong vô thức:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông hội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bốn cặp câu thơ lục bát, mỗi cặp gợi lên một nỗi buồn man mác, một cảnh bi ai. Điệp khúc buồn trông cất lên như một bản nhạc nhẹ đầy xúc cảm mãnh liệt của một tâm hồn và trái tim tan vỡ. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa ngóng trông một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi thực tại, Hình như Kiều mong một cánh buồm nơi cửa bể, cánh buồm đưa Kiều trở lại quê hương, xứ sở của mình, thế nhưng cánh buồm lại thấp thoáng, xa xa không thể rõ được và mỗi lúc một xa như ước vọng mơ hồ và dần tụt khỏi tầm tay của Kiều. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, một cánh hoa đang lênh đênh trên sóng nước bị xô đẩy không biết sẽ đi theo hướng nào. Phải chăng cuộc đời Kiều sẽ như bông hoa giữa dòng ấy?

Kiều buồn trông về bốn phía, chân mây mặt đất, về nội cỏ rầu rầu. Nội cỏ một màu héo úa, trải dài bất tận từ mặt đất đến chân mây. Thật đúng là nhìn cảnh lại đau thêm lòng. Kiều lại buồn lòng nghĩ đến một cuộc sống tẻ nhạt, vô vị ở chốn này, không biết sẽ còn kéo dài đến khi nào.

Nhìn xa rồi nhìn gần, nàng nghe thấy tiếng gió gào, tiếng sóng ầm ầm nổi lên như muốn vây chụp lấy nàng? Phải chăng những âm thanh dữ dội ấy tượng trưng cho những tai hoạ khủng khiếp sắp giáng xuống đầu nàng.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ nội tâm của Kiều một cách tinh tế. Qua đó, người đọc đã cảm nhận được cảnh ngộ éo le mà nàng phải chịu đựng. Tâm tư của Thuý Kiều vẫn không phai mờ trong tâm trí của chúng ta mỗi khi đọc lại Truyện Kiều. Ta cảm thương cho số phận của Kiều. Nàng như “bèo đạt mây trôi” giữa đòng đời tẻ nhạt. Xã hội phong kiến bất cồng đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ “tài sắc vẹn toàn”. Xã hội đen tối ấy nhất định sẽ bị diệt vong, còn người tốt như Kiều sẽ giải được oan khác của mình.


Nguyền Thị Thu Tuyến

(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
tửu tận tình do tại
64.17
Chia sẻ trên FacebookTrả lời