(trích trường ca “Làng tôi”)

Làng tôi cũng có sông cùng núi,
Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ.
Lụt năm Tỵ, dân xiêu đi quá nửa,
Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ.

Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa,
Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì.
Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm,
Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi.

Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột,
Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi.
Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất,
Cha dìu con... gục xuống, mỏn hơi rồi!

Anh em nhà lý trưởng Cời
Thừa lúc làng xiêu dân đói,
Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian,
Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói...

Tôi mười một mười hai còn đóng khố,
Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê.
Chiều hôm, bụng đói, em thì quấy,
Ngóng mẹ đường thôn kiếm gạo về.

Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói,
Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm.
Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm,
Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm.

Có thím Hợi mù loà cạnh vách
(Trận lụt làm chết sạch cả chồng con)
Cứ tối tối thím kể Bần nữ thán
Tỉ tê giọng oán câu hờn...

Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật
Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn.
Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng
Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn...

Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt,
Trộn đầy nước mắt, mưa thu.
Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc
Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa

         *

Mẹ tôi
Con gái làng Mai,
Ai cũng phải khen rằng đẹp.
Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai,
Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp.

Mười tám tuổi gả về xóm Núi
Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày.
Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái
Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây.

“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền...”
Vợ chồng đôi ngả.
Con sông chảy mãi về đâu?
Bóng núi đè thâm mái rạ...

Một hôm có giấy quan về,
(Ngỡ thế nào kia,
Ngờ đâu ra thế!)
Lý Cời qua ngõ tạt vào,
Rượu vẫn còn say bí tỉ.
Tờ giấy mở ra,
Trắng lốp một màu tang chế.
“- Này chị ấy ơi!
Giấy trên vừa mới chạy về,
Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ
Chính phủ Lang Sa
Đền công chồng chị,
Đây tấm bằng suất đội kèm theo,
Chữ ký quan Tây
Triện đồng đỏ choé
Chị giữ lấy mà treo.
Một bước nên bà
Sướng nhé!”
Hắn vê ria mép cười tình
Nhay nháy mắt lươn ti hí:
“Này! Lo lợn gạo mà khao,
Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế.
Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho,
Muốn trả, muốn không, tuỳ bụng chị.
Cứ ừ một tiếng là xong,
Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế...
Người thế kia mà lận đận chồng con,
Nghĩ thương đáo để!”
Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng,
Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ
Nước mắt dài hơn người,
Lòng rối như canh hẹ.
Con thơ níu áo hỏi dồn:
“Ông lý cho gì hở mẹ?”

Thế là
Áo trái đường khâu,
Chèn thêm chốt cửa.
Bỏ ngoài tai câu ý câu tình,
Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó

Giọng hát véo von
Mẹ dành để ru con ngủ:
“Ạ ời ơi
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về...”
Ăn đói làm thuê,
Cơm niêu nước lọ,
Mẹ ở vậy nuôi con,
Tháng năm vò võ...

Tôi có thằng bạn nhỏ,
Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhau
Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ
Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tầu...

Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc,
Có tài bắn súng cao su.
Trăm phát chẳng sai một phát,
Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù...

Nó mấy năm ròng lẽo đẽo
Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời.
No đòn vọt mà đói cơm đói cháo,
Vết lằn roi không kịp lặn trên người.

Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó,
Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu,
Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa
Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu.

Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông,
Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ.
Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no
Người phù thũng, da vàng như xát nghệ.

Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi,
Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc
Giơ lưng, lật áo cho xem
Máu chảy thành dòng
Lằn roi vọt quất ngang quất dọc:

“- Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi
Xó chợ, đầu đường, ra Đông, ra Bắc
Cũng cứ liệu thôi!
Ở với nó có ngày chết mất!”
Nói rồi nó bỏ đi luôn
Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt.

Nhưng ngay chiều ấy
Đinh lại quay về.
Nó đứng đầu hè,
Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ:
“Mày ơi, nghĩ lại không đành
Đi thì yên một thân tao
Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ?
Cái kiếp thằng tao
Sao mà khổ thế!
Tí nữa đây tao ló mặt về
Cầm chắc ăn đòn bội nhị”.
Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi
Những trận đòn đau sắp tới:
“- Thôi lại sáng mai
Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi.
Bờ sông lúc nãy tớ đi qua
Sáo sậu đâu về vô khối.
Ngày mai bắt sống một con chơi,
Lột lưỡi dạy cho nó nói...”

         *

Tết đến, xuân về,
Phây phây mưa bụi.
Xanh non lá lộc nhú cành khô
Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội.
Xuân vui nhà ngói nhà lim,
Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi.
Nhà lý trưởng Cời,
Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối
Nhà tôi tết đến cũng như không,
Ba nén hương đen,
Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói.

Xong tết bên sông làng mở hội,
Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo.
Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại,
Vách núi ầm vang tiếng trống chèo.

Ba gian đình cổ người đông nghịt,
Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu.
Tôi rủ Đinh chen vào góc cột
Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu.

...............

Hồi trống vãn trò vừa dứt,
Cũng vừa gà gáy sang canh.
Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh
Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh.

Đò trở ngang sông
Đinh ghé tai tôi nói nhỏ:
“- Lúc nãy tao trông lão Lý Cời
Sao giống hết Lý Thông, mày ạ!
Cũng ria mép đen thui,
Cũng mắt lươn trắng dã.
Từ rày đừng gọi Lý Cời,
Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!”

Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi
Tôi thường bàn tán với Đinh
Thương họ Thạch hàn vi côi cút,
Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình!
Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ,
Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh...

Đinh vội cướp lời, kể lể
“Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế.
Tao đương cắt cỏ bờ sông,
Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông
Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng
Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống
Vội vàng nó hoá Trăn Tinh
Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình
Tao không sợ, tao liền hoá phép,
Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt
Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng...”

Hai đứa nhìn nhay thích chí
Tưởng đâu đời sắp sướng rồi.
Như họ Thạch hết hồi bĩ cực,
Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngội...

Nhưng rồi... hai đứa chúng tôi
Sự thật ngày thêm cơ cực quá!
Chẳng một lần được Tiên cho phép lạ
Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai
Xóm Núi, làng Mai
Nghèo đói càng thêm nghèo đói.
Thím Hợi hát rong không sống nổi
Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa,
Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa
Đêm mưa tối vẫn kể “Bần nữ thán”
Mẹ tôi da dẻ ngày đen xạm
Kỳ giở giời lưng nhức chân tê
Những hôm mưa gió dầm dề
Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo,
Nghèo rớt mồng tơi
Không mua nổi chỉ kim vá áo
Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm
Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn
Mấy bận lại quay về chịu đánh
Lưng cháy nắng lại roi lằn máu quánh,
Súng cao su không bắn chết được Trăn Tinh
Xám ngắt ao tù,
Ngày tháng quẩn quanh,
Cùng đường nghẽn lối.
Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi,
Xây nhà tây chót vót hai tầng
Cửa sổ há ra như mồm những con trăn
Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi
Trong nhà nó cứ vui như mở hội
Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn
Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan,
Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ.
Tây với Nhật ra vào lố nhố,
Bắt phu, cướp thóc.
Nghênh ngang súng ngắn, gươm dài
Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay,
Trời nghiêng đất lệch.

         *

Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách,
Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm.
Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm
Một bát canh cần cá quả.
Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xoả
Nhà Lý Cời cá béo sống đầy chum
Đinh đánh liều lấy trộm một con
Về nấu bát canh cho mẹ.
Trời chiều bóng xế...
Đinh múc canh bưng đến cạnh giường
Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn,
Không ăn được nữa.
Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở
Bát canh rơi vỡ tan tành...

Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh
Cuối xóm đường đi lút cỏ.
Rờn rợn mùi hương
Lều tối loé lên ba chấm đỏ
Đinh đương quỳ khấn nỉ non:
“- Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con...”
Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật:
“- Tao đi thật, chuyến này, đi thật
Tao định rủ mày, hai đứa với nhau...”
Tôi hỏi: “Đi đâu?”
Nó rằng: “Không phải hỏi,
Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội,
Thân lập lấy thân
Hai bàn tay làm lấy mà ăn
Không để đói, không để ai đánh chửi.”

Đông dặc trời sao chấp chới
Gió may sương muối rét tê người.
Hai đứa vòng qua ngõ Lý Cời,
Dừng lại ngó toà nhà tây cao ngất
Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát
Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương,
Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường.
Đinh chửi một câu, rút súng cao su, lắp đạn
Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn
Nghe một tiếng choang,
Một khung kính cửa vỡ tan
Đàn chó sủa ầm, hốt hoảng,
Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng...

Trời rét
Đêm khuya
Đò vắng,
Cởi áo quần hai đứa lội qua sông
Tưởng mình như hai gã tiểu đồng,
Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ.
Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá!
Qua sông. Trời sắp sáng rồi
Ngoảnh trông xóm Núi bồi hồi
Chắc mẹ đêm qua lại khóc.
Xóm Núi sương giăng
Mặt trời chưa mọc.
Đó đây nghe đã rộn canh gà.

Bỏ làng đi năm bốn mươi ba.
Hai đứa mới mười sáu tuổi...
........................................


Nam Định, 1961

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]