Than rằng:
Lễ năm phục buộc vào lòng ruột, cổ kim kim cổ luống mơ màng;
Việc trăm năm ngẫm lại gót đầu, không có có không chi kể lể.

Cảnh phù du trông thấy khéo buồn thay;
Hồn hồ điệp chập chờn thêm ngán nhỉ.

Nhớ thuở lá đào phất gió, phan hồng nở thắm đức dường non;
Chờ khi cây ngọc rủ cành, sẻ phấn san hương ân những bể.

Trước chầu thần phật nhún lễ rờn văn;
Trong đám nhi tôn chải vành chuốt vẻ.

Giấc trăm tuổi thảnh thơi con hạc múa, dứt bầu đàn vui thú nhân gian;
Bỗng năm canh rầu rĩ tiếng quyên dồn, đem tinh phách dạo miền xích thuỷ.

Tình biệt ly lúc ấy càng đau;
Tính cơ sự ngày xưa lại bẽ.

Cầm nửa khúc thoắt đâu chênh bóng nguyệt, trách duyên hôi mà cao giấc hùng bi;
Liễu một cành chưa chút nẩy chồi xuân, than phận bạc bỗng hụt dây kháng lệ.

Gánh giang sơn nói lại thương cha;
Đội phu phát nói càng tủi rể.

Hàng trúc hai chồi bé nhỏ, tưởng hơi ôm ấp cháu thương bà;
Phận bồ đôi kẻ long đong, nối giọng thấp cao con khóc mẹ.

Ôi!
Gang tay bóng sổ, ngán kiếp phù sinh;
Bãi bể nương dâu, buồn cơ mộng thế.

Rắp lộn xuống thềm đào bà Vương Mẫu, hỏi làm sao cắc cớ trăm chiều;
Toan với lên cung nguyệt chị Hằng Nga, hỏi sao khéo chát chua lắm vị.

Nay nhân:
Đường tổ rước về;
Tuần ngu đặt tế.

Nực nội quạt nắng hè thủa trước, chưa chút lưng tần đĩa tảo, ngửa lên trông non nhạc nghìn thu;
Lạnh lùng sinh gió bấc ngày nay, gọi là mảnh giấy thoi vàng, cúi xuống đốt nén hương một lễ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]