Than rằng:
Trời đất ký quy là mệnh cả, ai là vinh mà ai chẳng là khổ;
Xưa nay trắc trở ấy lòng thường, dám rằng thiện cũng dám đâu rằng phúc.

Hầu Lục Sự lượm đôi hồn cổ trủng, tế ở bên thành;
Quan Xạ Thanh dồn trăm sở đình quan, thờ chưng góc phủ.

Dấu thơm còn để;
Việc cũ khá noi.

Phủ ta đây:
Dân vật trăm năm;
Đất đai một cõi.

Dặm quan lộ dải tràng giang quanh bốn mặt;
Chốn thị chiền nơi quán xá khắp năm phương.

Kẻ viễn thú, kể tòng chinh, với lại kẻ hành thương bộ khách;
Người bị hình, người u ngục, cùng là người cơ ngã lưu ly.

Có người đầu bãi cuối sông, mắc vào thuỷ ách;
Có kẻ ngang cầu dọc quán, gặp phải thiên tai.

Hoặc người tấm bé lỗi giờ sinh lánh mẹ lánh cha;
Hoặc kẻ tác già đeo nghiệp chướng vắng con vắng cháu.

Một là lỡ bước lạc loài, đâu làm họ mạc;
Hai nữa xấu duyên kém phận, ai kẻ viếng thăm.

Thương thay mười loại chúng sinh, bãi xương trắng để mưa tan gió sảy;
Trải biết mấy thu tang hải, làn cỏ xanh mà lửa tắt hương tiêu.

Khách qua đường trông thấy cũng châu tran;
Người thủ thổ lẽ đâu mà chểnh mảng.

Bản chức:
Vâng triều mệnh;
Vỗ phương dân.

Nhìn xem những quặn tấm lòng;
Đi lại muốn sa nước mắt.

Đã hay sinh chưa độ, có vội gì độ tử, lẽ chia khinh trọng tự ngàn xưa;
Song le quỷ có yên, rồi sau mới yên người, đạo vốn u minh là một lẽ.

Vậy nên:
Xây nền phổ tế;
Mở lối siêu sinh.

Gọi là nồi đất tiểu sành, bốc xương cốt để chôn nơi cát địa;
Sắm sửa vàng hồ áo giấy, đốt khói hương cho thấu đến âm hồn.

Thỉnh tăng mà đọc kệ đọc kinh;
Lập đàn để giải oan giải ách.

Cứ khai tờ trước sau bao nhiêu xã ấy;
Kể cô hồn mới cũ có mấy trăm dư.

Hoặc còn trong chín tổng ta, vùi cỏ sương khuất mắt khôn tìm, dân không báo hoá nên ân chẳng khắp;
Hoặc ở ngoài trăm dặm ấy, cách bờ cõi ngắn tay khó với, chúa có lòng nhưng nài thế biết sao.

Có khôn thiêng lại cả đàn tiền;
Để tế độ nhờ ơn phật pháp.

Nào kẻ ở gò đống cỗi cây khi trước, nối mai sau cứ đó y quy;
Nào kẻ nương đền chùa bờ bụi bấy nay, mỗi tuần tiết về đây hâm hưởng.

Nghe tục truyền có loài địa quỷ;
Nương cây cao ở chốn huyện thành.

Dấu thơm từ thế đại nào;
Hồn thiêng còn tiềm ẩn đó.

Vả công sở ấy uy nhan gang tấc, có đấng thượng thần, có quan mệnh lại, minh với u, thân với khuất, lẫn sao nên;
Mà tân vu thì khí tượng muôn nghìn, kìa người đồng loại, kìa khách tri âm, triêu làm vũ, mộ làm vân, riêng mấy thoả.

Nay đã dựng khu vũ ấy để độ chúng sinh;
Xin đem cả đảng loại ra mà làm minh chủ.

Dấu chẳng biết ngày sinh ngày tử, cùng tính danh quán chỉ cũng không tường;
Nhưng từ rầy yên chốn yên ngôi, mà thành quách câu trì đều khỏi xót.

Nam vô cứu khổ cứu nạn, đã thoát trầm luân;
Hộ trì thử thổ thử dân, chớ làm yêu lệ.

Nhất thiết chúng sinh;
Đều nghe lấy nhé.


Khi Bá Xuyến làm án phủ sứ phủ Hoài Đức, lập một nghĩa chủng để cất những mồ chúng sinh cả hàng phủ để vào đấy, mới làm bài văn này để tế.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]