15.00
Thể thơ: Thơ mới năm chữ
Thời kỳ: Hiện đại
3 người thích
Từ khoá: Hàn Tín (11)

Đăng bởi Nguyễn Dũng vào 20/03/2009 14:31, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Nguyễn Dũng vào 02/09/2009 13:46

Ngồi câu trên sông Hoài
Nước trong soi chí lớn,
Một sớm động lòng trai
Ra đi mây gió rợn.

Vó câu ruổi theo Sở
Giận thân Chấp Kích Lang;
Hạng Vương ví xanh mắt
Đâu còn nghiệp Lưu Bang!

Đường Thục gian nan quá
Lặn suối với trèo non;
Mộng trùm ngang thiên hạ
Lòng bền như sắt son.

Đeo gươm vào xứ lạ
Nằm khàn đất Bao Trung,
Nhìn non cao trùng điệp
Nghe chim kêu não nùng.

Cho hay lòng tri kỷ
Đời có được bao nhiêu!
Bụi bay mờ mắt tục,
Quán trọ sớm lại chiều.

Bến xa mình một ngựa
Bóng đổ dưới trăng khuya,
Cuối rừng ào lá rụng
Một đoàn bóng ngựa phi.

Sông nước ngăn vó ký
Chín bệ thoả chờ mong,
Rồi đăng đàn bái tướng
Thân đeo ấn Nguyên Nhung.

Ba tháng luyện binh mã
Tôn Ngô, Hán Bái Công;
Một sớm lệnh truyền xuống
- Bỏ Thục, nhằm phía Đông!

Một ra ngoài thiên hạ
Định ngay được Tam Tần,
Thành Hàm Dương cung điện
Nhìn thấy mặt cố nhân

Gươm đo nửa thiên hạ
Ngựa ruổi khắp non sông,
Diệt Tề, yên Nguỵ, Triệu
Khói lữa chen bụi hồng.

Trải hai phen Tề Sở,
Đỉnh chung: mấy tước Vương,
Rở ràng nơi điện ngọc
Ngôi cao nhìn bốn phương

Giữa lúc yên chung đỉnh,
Nói gì thuyết tam phân!
“- Hỡi ơi! Người Khoái Triệt.
Ta nỡ phụ Hoàng ân!”

Cửu lĩnh mây trùng điệp
Ô giang nước mênh mông,
Quân Hán khắp bốn mặt
Vây một người anh hùng.

Dồn quân đất Cai Hạ.
Địch Trương Lương não nùng!
(Nước Ô giang chảy xiết
Cuồn cuộn và mênh mông)

Trượng phu dầu thất thế
Đâu tính chuyện sang sông.
Việc lớn đã lỡ cả,
Làm gì mảnh Giang Đông!

Bốn phương khói lửa hết
Cung kiếm vô dụng rồi;
Tái cao đành gác lại
Nhìn ánh mây giời trôi...

Đất Tề Sở trả lại,
Đỉnh chung: một tước hầu
Bên vàng son cung điện
Hàm Dương! Cố nhân đâu?

Buộc lỏng nơi kinh khuyết
Cánh bằng vạn dặm khơi.
Nhớ lại ngày bái tướng
Chuyện Thục đã xa rồi!

Ai dâng gươm nguyên suý?
Ai hẹn ước non sông?
Vị Ương ngày lâm nạn
Người xưa đâu Tử Phòng?

Nồi kê trong quán trọ,
Canh gà vừa giục mau.
Bừng dậy: hai tay trắng.
Khanh tướng huy hoàng đâu?

Than ôi! Gươm Lã Hậu
Mây gió mờ không gian!
Thôi rồi người quốc sĩ
Máu rỏ lạnh Trường An...

(Năm hồ thuyền Phạm Lãi,
Trăm động dép Trương Lương,
Lòng sao buồn phú quý.
Mây trời tản mười phương)

Nghiệp Hán hoa xuân ấm
Vị Ương mây mùa thu
Xuân sang hoa rực rỡ.
Mấy mùa thu bơ vơ...

Tình đời buồn lắm nhỉ,
Than ôi,Hoài âm hầu!
“- Trời đất còn khi hết”
Hận này đến nghìn thâu.”