234.61
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Trần
3 bài trả lời: 3 bản dịch
8 người thích
Từ khoá: người hiền (1) hoa sen (93)

Đăng bởi Vanachi vào 04/01/2007 16:34, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 04/01/2007 16:34

玉井蓮賦

客有:
隱几高齋,夏日正午。
臨碧水之清池,詠芙蓉之樂府。

忽有人焉:
野其服,黃其冠。
迥出塵之仙骨,凜辟穀之臞顏。
問之何來,曰從華山。
迺授之几,迺使之坐。
破東陵之瓜,薦瑤池之果,
載言之琅,載笑之瑳。

既而目客曰:
子非愛蓮之君子耶!
我有異種,藏之袖間。
非桃李之粗俗,非梅竹之孤寒。
非僧房之枸杞,非洛土之牡丹。
非陶令東籬之菊,非靈均九畹之蘭。
乃泰華山頭玉井之蓮。

客曰:
異哉!豈所謂藕如船兮花十丈,冷如霜兮甘比蜜者耶!
昔聞其名,今得其實。
道士欣然,乃袖中出。
客一見之,心中鬱鬱。
乃拂十樣之牋,泚五色之筆。

以而歌曰:
架水晶兮為宮,
鑿琉璃兮為戶。
碎玻璃兮為泥,
洒明珠兮為露,
香馥郁兮層霄,
帝聞風兮女慕。
桂子冷兮無香,
素娥紛兮女妒。
採瑤草兮芳州,
望美人兮湘浦。
蹇何為兮中流,
盍將返兮故宇。
豈護落兮無容,
嘆嬋娟兮多誤。
苟予柄之不阿,
果何傷兮風雨。
恐芳紅兮搖落,
美人來兮歲暮。

道士聞而嘆曰:
子何為哀且怨也!
讀不見鳳凰池上之紫薇,白玉堂前之紅藥!
敻地位之清高,藹聲名之昭灼。
彼皆見貴於聖明之朝,子獨何之乎騷人之國!

於是有感其言,起敬起慕。
哦誠齋亭上之詩,庚昌黎峰頭之句。
叫閶闔以披心,敬獻玉井蓮之賦。

 

Ngọc tỉnh liên phú

Khách hữu:
Ẩn kỷ cao trai, hạ nhật chính ngọ.
Lâm bích thuỷ chi thanh trì, vịnh phù dung chi Nhạc phủ.

Hốt hữu nhân yên:
Dã kỳ phục, hoàng kỳ quan.
Huýnh xuất trần chi tiên cốt, lẫm tích cốc chi cù nhan.
Vấn chi hà lai, viết tòng Hoa San.
Nãi thụ chi kỷ, nãi sử chi toạ.
Phá Đông Lăng chi qua, trãi Dao Trì chi quả,
Tái ngôn chi lang, tái tiếu chi tha.

Ký nhi mục khách viết:
Tử phi ái liên chi quân tử gia!
Ngã hữu dị chủng, tàng chi tụ gian.
Phi đào lý chi thô tục, phi mai trúc chi cô hàn.
Phi tăng phòng chi cẩu kỷ, phi Lạc thổ chi mẫu đan.
Phi Đào lệnh đông ly chi cúc, phi Linh quân cửu uyển chi lan.
Nãi Thái Hoa san đầu ngọc tỉnh chi liên.

Khách viết:
Dị tai! Khởi sở vị ngẫu như thuyền hề hoa thập trượng, lãnh như sương hề cam tỷ mật giả gia!
Tích văn kỳ danh, kim đắc kỳ thực.
Đạo sĩ hân nhiên, nãi tụ trung xuất.
Khách nhất kiến chi, tâm trung uất uất.
Nãi phất thập dạng chi tiên, thử ngũ sắc chi bút.

Dĩ nhi ca viết:
Giá thuỷ tinh hề vi cung,
Tạc lưu ly hề vi hộ.
Toái pha ly hề vi nê,
Sái minh châu hề vi lộ,
Hương phức uất hề tằng tiêu,
Đế văn phong hề nữ mộ.
Quế tử lãnh hề vô hương,
Tố Nga phân hề nữ đố.
Thái dao thảo hề Phương châu,
Vọng mỹ nhân hề Tương phố.
Kiển hà vi hề trung lưu,
Hạp tương phản hề cố vũ.
Khởi hộ lạc hề vô dung,
Thán thiền quyên hề đa ngộ.
Cẩu dư bính chi bất a,
Quả hà thương hề phong vũ.
Khủng phương hồng hề dao lạc,
Mỹ nhân lai hề tuế mộ.

Đạo sĩ văn nhi thán viết:
Tử hà vi ai thả oán dã.
Độc bất kiến Phượng Hoàng trì thượng chi tử vi, Bạch Ngọc đường tiền chi hồng dược!
Quýnh địa vị chi thanh cao, ái thanh danh chi chiêu chước.
Bỉ giai kiến quý ư thánh minh chi triều, tử độc hà chi hồ tao nhân chi quốc!

Ư thị hữu cảm kỳ ngôn, khởi kính khởi mộ.
Nga Thành Trai đình thượng chi thi, canh Xương Lê phong đầu chi cú.
Khiếu xương hạp dĩ phi tâm, kính hiến “Ngọc tỉnh liên” chi phú.


Bài phú này được lấy ý từ bài Cổ ý của Hàn Dũ và Ái liên thuyết của Chu Đôn Di.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Võ

Khách có kẻ:
Nhà cao tựa ghế; trưa hạ nắng nồng.
Ao trong ngắm làn nước biếc; Nhạc phủ vịnh khúc phù dung.

Chợt có người:
Mặc áo quê; đội mũ vàng.
Tiên phong đạo cốt; khác xa trần gian.
Hỏi “Ở đâu lại”, rằng “Từ Hoa San”.
Bèn bắc ghế; bèn mời ngồi.
Dưa Đông Lăng đem cắt; quả Dao trì đem mời.
Bèn sang sảng nói, bèn ha hả cười.

Đoạn rồi, trông khách mà rằng:
Anh cũng là người quân tử ưa hoa sen đó chăng?
Ta có giống lạ trong ống áo này.
Chẳng phải như đào trần lý tục; chẳng phải như trúc cỗi mai gầy.
Câu kỷ phòng tăng khó sánh; mẫu đơn đất Lạc nào tầy.
Giậu Đào Lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân lan khó sánh thay!
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái hoa đây.

Khách rằng:
Lạ thay! Có phải người xưa từng bảo: “Ngó như thuyền mà hoa mười trượng, lạnh như sương mà ngọt như mật” đó ư?
Trước vẫn nghe tiếng, nay mới thấy thật.
Đạo sĩ lòng vui hớn hở, lấy trong ống áo trưng bày.
Khách vừa trông thấy; lòng ngậm ngùi thay.
Giấy mười thức xếp sẵn; bút năm sắc thấm ngay.

Làm bài ca rằng:
Thuỷ tinh gác để làm cung
Cửa ngoài lóng lánh bao vòng lưu li
Bùn thời tán bột pha lê,
Hạt trai làm móc dầm dề tưới cây,
Mùi hương thơm ngát tầng mây,
Ngọc hoàng nghe cũng rủ đầy tình thương.
Lạnh lùng hạt quế không hương,
Tố Nga lại nổi ghen tuông tơi bời.
Bãi sông hái cỏ dạo chơi,
Bến Tương luống những trông vời Tương phi,
Giữa dòng lơ lửng làm chi,
Nhà xưa sao chẳng về đi cho rồi.
Há rằng trống rỗng bất tài
Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay.
Nếu ta giữ mực thẳng ngay.
Mưa sa gió táp xem nay cũng thường
Sợ khi lạt thắm phai hương.
Mỹ nhân đến lúc muộn màng hết xuân.

Đạo sĩ nghe mà than rằng:
Sao anh lại ai oán như thế?
Anh không thấy: hoa tử vi trên ao Phượng hoàng, hoa hồng dược trước thềm Ngọc đường đó sao?
Địa vị cao cả; danh tiếng vẻ vang.
Triều minh thánh chúng ta đều được quý: cõi tao nhân anh đi mãi sao đang.

Khách bấy giờ:
Nghe lọt mấy lời; đem lòng kính một.
Ngâm thơ đình thượng của Thành Trai; hoạ câu phong đầu của Hàn Dũ.
Gõ cửa thiên môn, giãi tấc lòng, kính dâng bài “Ngọc tỉnh liên” phú.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
133.92
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của C.Đ.

Đương khi lửa hạ, khách cao trai thư thả, tới dòng nước biếc, vịnh khúc phù dung, đến bến ao trong, ngâm câu nhạc phủ. Bỗng bóng ai, áo trắng mũ vàng, phất phơ diệu cốt xương tiên, hớn hở tinh thần khác tục. Khách hỏi: Tự đâu mà lại? Thưa rằng: Từ núi Hoa San. Khách kéo ghế mời ngồi vồn vã, này đưa ngon quả quý bày ra. Chuyện gần thôi lại chuyện xa, nói cười lơi lả, tiệc hoa tơi bời. Chuyện xong, mới hỏi khách rằng: Khách đây quân tử ái liên chăng là? Tiện đây sẵn có giống nhà, vẫn từng gìn giữ nâng niu hoa vàng. Nọ đào lý bỉ thô còn kém, kể trúc mai đơn lạnh còn xa; nào phải giống tăng phòng câu kỷ, nào phải phường Lạc thổ mẫu đơn, cũng chẳng phải đông ly đào cúc, mà cũng không cửu uyển linh lan; chính là một giống sen thần, đầu non núi Hoạ giếng vàng sinh ra. Khách nghe nói: Khen thay quý lạ! Phải chăng giống hoa cao mười trượng, ngó cong như thuyền, lạnh giá như băng, ngọt ngon tựa mật, xưa từng nghe tiếng, nay được thực trông. Nghe qua, đạo sĩ vui lòng, hoa trong tay áo giũ liền tặng đưa. Khách trông thấy trong lòng hồi hộp, bút ngũ lăng tay thảo nên ca. Ca rằng:

Thuỷ tinh làm mái cung đình
Lưu ly tạc để nên hình cung môn
Pha lê nát nhỏ làm bùn
Minh châu làm móc trên cành tưới cây
Hương thơm bay thấu từng mây
Bích thiên âu cũng mê say tấc lòng
Quế xanh khóc vụng tuổi thầm
Tố Nga luống những mười phần giận thân
Cỏ dao hài chốn Phương tân
Sông Tương trông ngóng mỹ nhân dãi dầu.
Giữa dòng lơ lửng vì đâu?
Non sông đất cũ cớ sao chẳng về?
Đành nơi lưu lạc quản gì
Thuyền quyên lỡ bước lắm bề gian truân
Một lòng trung chính nghĩa nhân
Lo chi mưa gió, phong trần, tuyết sương!
Chỉn e lạt phấn phai hương
Tháng ngày thắm thoát, mỹ nhân ai hoài

Nghe xong, đạo sĩ than rằng: Nói chi ai oán thiết tha! Kìa chẳng xem đoá tử vi nở trên ao phượng, hoa thược dược mọc trước bệ vàng, cũng là địa vị thanh cao, thanh danh hiển hách, ơn trên Thánh chúa, mưa móc dồi dào. Vội chi tủi phận hờn duyên, nước non lẩn thẩn toan bề đi đâu? Khách nghe ra như tình như cảm, đem lòng kính mộ xiết bao. Khúc trai đình tay tiên đề vịnh, thơ phong đầu giọng ngọc ngâm nga. Nỗi lòng xin giãi gần xa, kính dâng một phú hải hà xét soi.


Bản dịch trong Văn đàn bảo giám (Trần Trung Việt sao lục).

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
55.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Duy Vôn

Khách đương ngồi ghế chon von,
Trời hè đã điểm vầng son giữa đầu.
Trông xuống nước một mầu xanh ngắt,
Phú phù dung xin vạch mấy câu.
Hốt nhiên lại có người đâu,
Mũ vàng đậy tóc, áo nâu che mình.
Khác cõi tục như hình tiên lạc,
Rảnh hơi cơm không được đặm đà.
Hồi rằng quê ở đâu ta?
Rằng: - Tôi ở ngọn non Hoa mới rồi.
Bèn đưa ghế bảo ngồi thư thả,
Bổ dưa Đông dâng quả Giao Trì.
Cười cười nói nói khì khì,
Đã mà bảo khách là vì yêu sen.
Ta có thứ vẫn khen rằng lạ,
Tay áo này ta đã bỏ lâu.
Không như đào lý chăn chau,
Không như mai trúc phải sầu cô đơn.
Cũng không phải mẫu đơn cẩu kỷ,
Cũng không là cúc rỉ lân sân.
Chính là một giống sen thần,
Mọc trong giếng ngọc giữa làn non Hoa.
Khách mới bảo: - Sao mà lạ thế,
Thật ngó to hoa kể mười tầm.
Lạnh như sương tuyết dãi dầm,
Ngọt như mật tẩm đường đằm ấy chăng?
Vẫn nghe thấy nói năng khi trước,
Nhưng ngày nay biết được thật rồi.
Xem chừng đạo sĩ cũng vui,
Rút trong tay áo mới tòi mòi ra.
Khách trông thấy lòng đà thổn thức,
Giấy bút bày lập tức xong phăng,
Làm bài ca mới hát rằng:
Thuỷ tỉnh làm diệu, ngó bằng lưu ly.
Bùn phải tán pha lê mới phải,
Sương phải đem châu sái mới xong.
Chín lần thoang thoảng thơm nồng,
Trời kia vẫn sẵn có lòng ước ao.
Kìa hương quế ngạt ngào phải hết,
Nọ cô Hằng rất mệt ghen tuông.
Hái rau trên bãi sông Phương,
Người yêu những nhớ sòng Tương chút tình.
Giữa dòng nước ẩn mình chi mãi,
Cố vũ kia sao hãy chẳng về.
Há như hộ lạc quê nề,
Thuyền quyên, ôi hỡi! lầm về thuyền quyên.
Ví dọc nọ không xiên không quẹo,
Gió mưa kia lạnh lẽo hại gì.
Chỉn e thắm rụng hồng suy,
Mỹ nhân khi tới còn gì là xuân.
Đạo sĩ bỗng ân cần than thở,
Rằng: “Bác sao thương nhớ về đâu.
Tử vi bên chốn ao sâu,
Mấy chồi hồng dược trước lầu nhớ nao.
Lên một nước thanh cao một nước,
Chút thân danh chiêu chước đã nhiều.
Kẻ kia lừng lẫy trong triều,
Bác đâu bác cứ tiêu diêu quê người.”
Bèn áy ngáy những lời nói đó,
Thêm kính và thêm mộ vì ai.
Trên đình ngâm khúc Thành Trai,
Thơ Xương Lê lại nối vài bốn câu.
Cửa xương hạp nhòm sâu thăm thẳm,
Mảnh băng tâm đặm thắm dãi liền.
Mừng mừng sợ sợ chưa yên,
Xin dâng bài phú tỉnh liên mấy vần.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
44.75
Trả lời