Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Vãn Đường
3 bài trả lời: 3 bản dịch

Đăng bởi Diệp Y Như vào 27/03/2010 06:16, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 29/03/2010 07:29

燕臺詩-春

風光冉冉東西陌,
幾日嬌魂尋不得。
蜜房羽客類芳心,
冶葉倡條遍相識。
暖藹輝遲桃樹西,
高鬟立共桃鬟齊。
雄龍雌鳳杳何許?
絮亂絲繁天亦迷。
醉起微陽若初曙,
映簾夢斷聞殘語。
愁將鐵網罥珊瑚,
海闊天寬迷處所。
衣帶無情有寬窄,
春煙自碧秋霜白。
研丹擘石天不知,
願得天牢鎖冤魄。
夾羅委篋單綃起,
香肌冷襯琤琤佩。
今日東風自不勝,
化作幽光入西海。

 

Yên đài thi - Xuân

Phong quang nhiễm nhiễm đông tây mạch,
Kỷ nhật kiều hồn tầm bất đắc.
Mật phòng vũ khách loại phương tâm,
Dã diệp xương điều biến tương thức.
Noãn ái huy trì đào thụ tây,
Cao hoàn lập cộng đào hoàn tề.
Hùng long thư phụng diểu hà hứa?
Nhứ loạn ty phồn thiên diệc mê.
Tuý khởi vi dương nhược sơ thự,
Ánh liêm mộng đoạn văn tàn ngữ.
Sầu tương thiết võng quyến san hô,
Hải khoát thiên khoan mê xứ sở.
Y đới vô tình hữu khoan trách,
Xuân yên tự bích thu sương bạch.
Nghiên đan phách thạch thiên bất tri,
Nguyện đắc thiên lao toả oan phách.
Giáp la uỷ khiếp đan tiêu khởi,
Hương cơ lãnh sấn tranh tranh bội.
Kim nhật đông phong tự bất thăng,
Hoá tác u quang nhập tây hải.

 

Dịch nghĩa

Phong cảnh mùa xuân trôi qua trên con đường đê,
Mấy hôm nay hồn em như không tìm được.
Lòng em như ong tìm nhuỵ xuân,
Cành lá dương liễu xanh biếc như quen nhau.
Khí ấm ngày xuân như còn ở mé tây vườn đào,
Bới đầu tóc cao đứng dưới cội đào.
Rồng phượng xa vời nơi nao,
Tơ liễu rộn bay đến trời cũng mù mịt.
Tỉnh giấc trưa thầy bóng nắng chiều nhạt ngỡ ánh bình minh,
Nắng chiếu qua rèm, tàn giấc mộng còn nghe lời ai văng vẳng.
Dầu đem lưới sắt giăng bủa san hô,
Nhưng trời cao biển rộng biết tìm nơi đâu.
Lưng áo vô tình rộng thêm ra,
Khói xuân xanh biếc sương thu trắng.
Sơn mòn, đá nứt nhưng trời không biết,
Nguyện xin có thiên lao để nhốt hồn phách oan ức này.
Mùa hạ sắp đến, đem áo kép cất vào tráp, chỉ mặc áo lụa đơn,
Làn da thơm, ống tay áo lạnh, vòng đeo tay leng keng.
Gió xuân hôm nay không chịu nổi nỗi sầu muộn,
Hoá thành luồng sáng bay vào biển tây.


Yên Đài thi là chùm thơ bốn bài cổ thể trữ tình thuần tuý, cả bốn bài đều mượn lời người thiếu nữ nói lên nỗi đau đớn tuyệt vọng và nỗi sầu khổ tương tư người yêu. Chùm thơ này có lẽ được sáng tác vào năm đầu niên hiệu Đại Hoà đời Đường Văn Tông, khi tác giả còn trẻ chưa đỗ tiến sĩ. Bài tựa Liễu chi (ngũ thủ) của ông có nói, anh của ông là Nhượng Sơn từng đem bài thơ này cho Liễu Chi, một cô gái rất tài tình và giàu có trong thành Lạc Dương xem và được cô gái khen ngợi. Sau khi Liễu Chi thấy Nghĩa Sơn, nàng hẹn ba ngày sau gặp nhau, Lý Thương Ẩn vì vội vàng đến kinh sư nên chuyện chưa như ý nguyện. Về sau, Liễu Chi bị bọn quyền quý ép lấy nên ông ôm hận một đời. Phùng Hạo vì căn cứ theo bài tựa Liễu chi mà ngờ là trước khi Lý Thương Ẩn và Liễu Chi gặp nhau, lúc ông học đạo tu tiên ở núi Lạc Dương từng yêu thương nữ đạo sĩ, và cho rằng bài thơ này có thể là viết cho nữ đạo sĩ (Ngọc Khê sinh thi tập tiên chú). Nói như Phùng Hạo cũng có thể, nhưng cũng không ngoại trừ khả năng tác giả viết thay cho người con gái khác. Các nhà phê bình thơ đều cho rằng bài thơ này bắt chước theo thể thơ của Lý Trường Cát (Lý Hạ) nhưng “thanh xuất ư lam” (hay hơn), là những bài thơ tình diễm tuyệt, tình cảm ai oán nồng nàn, có một không hai xưa nay.

Bài này tả nỗi sầu tương tư sau khi người thiếu nữ chia tay người yêu.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Quang Trường

Bóng xuân đẹp bờ đê thấm thoắt,
Hồn em buồn hiu hắt bấy lâu.
Lòng em tựa cánh nong nâu,
Cành dương lá biếc quen nhau bao ngày.
Hơi xuân ấm vườn tây quyến luyến,
Bới đầu cao khấp khiểng cùng đào.
Phượng rồng xa cách nơi đâu?
Liễu tơ bay loạn trời cao mịt mùng.
Tà huy rọi, hừng đông cứ ngỡ,
Giấc mộng tàn, còn được tiếng mơ.
Sầu đem lưới bủa san hô,
Trời cao biển rộng biết mô mà tìm?
Đai áo rộng vô tình chi lắm,
Mùa xuân xanh, trắng đẫm hơi thu.
Đá, son, trời cũng tịt mù,
Thiên lao cam chịu nhốt tù phách oan.
Thay áo kép áo đơn đem mặc,
Làn da thơm se sắt vòng tay.
Gió xuân chẳng xiết nỗi này,
Hoá thành luồng sáng biển tây bay về.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Môn toả hoàng hôn,
Nguyệt tẩm mai hoa lãnh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Bờ đê vàng rộn sắc Xuân qua
Mấy độ hồn em đã nhạt nhoà
Tìm mật như ong bầu hút nhuỵ
Bén hơi tựa lá liễu vương tơ
Cội đào tây dưới vầng Xuân ấm
Tóc búi cao ngang cành trổ hoa
Long phụng thư hùng đâu khuất tận
Liễu tơ bay loạn tít mù xa
Sáng chiều lẫn lộn dậy còn say
Tàn mộng rèm bên lặng thở dài
Sầu bủa san hô giăng lưới sắt
Trời cao biển rộng mãi tìm ai
Vô tình dải áo cứ dài thêm
Khói biếc mù Xuân sương trắng đêm
Đá nứt son mòn trời chẳng rõ
Thiên lao nguyện giữ phách oan chìm
Áo dày xếp cất áo đơn bày
Mát rượi da thơm vòng lắc tay
Nay ngọn gió Đông buồn chẳng xiết
Mang luồng sáng lạnh trở về Tây

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Đường đê nhuộm sắc mùa xuân qua,
Mấy độ hồn em tìm chẳng ra.
Tìm nhuỵ như ong hoa hút mật,
Quen nhau như liễu biếc quanh nhà.
Ngày xuân đào mé tây vườn ấm,
Đầu tóc bới cao dưới cội đào.
Rồng phượng xa vời nào chốn ở,
Liễu tơ bay rộn đến trời nào?
Tỉnh trưa chiều nhạt ngờ nắng sáng,
Nắng chiếu rèm mơ lời vẳng vào.
Giăng bủa san hô dù lưới sắt,
Đâu nơi biển rộng chốn trời cao.
Vô tình lưng áo thêm ra rộng,
Xanh biếc sương thu xuân khói trào.
Đá nứt nghiên mòn trời chẳng biết,
Nguyện xin hồn phách nhốt thiên lao.
Áo dày hè xếp, đơn thay áo,
Tay lạnh da thơm, vòng xạc xào.
Sầu muộn gió xuân không chịu nổi,
Hoá thành luồng sáng biển tây vào.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời