喜遷鶯

曉月墜,
宿雲微,
無語枕邊欹。
夢回芳草思依依,
天遠雁聲稀。

啼鶯散,
餘花亂,
寂寞畫堂深院。
片紅休掃盡從伊,
留待舞人歸。

 

Hỉ thiên oanh

Hiểu nguyệt truỵ,
Túc vân vi,
Vô ngữ chẩm biên y.
Mộng hồi phương thảo tứ y y,
Thiên viễn nhạn thanh hy.

Đề oanh tản,
Dư hoa loạn,
Tịch mịch hoạ đường thâm viện.
Phiến hồng hưu tảo tận tòng y,
Lưu đãi vũ nhân quy.

 

Dịch nghĩa

Trăng buổi sáng rớt xuống,
Mây chiều tối tan đi,
(Suốt ngày dài) bên gối không nói gì.
Trong mộng nhớ tới người khôn nguôi,
Trời rộng, tiếng nhạn thưa thớt.

Tiếng oanh hót rời đi,
Hoa tàn sót lại (cuối xuân) tan tác,
Cô quạnh nơi lầu son viện thẳm.
Hồng rơi, xin chớ quét đi, mà hãy tận lòng với nó,
Lưu lại đợi người trở về.


Đây là một bài từ được sáng tác trong thời kỳ đầu của tác giả, miêu tả nỗi niềm tương tư.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Trăng sớm rụng,
Mây tối tan,
Tựa gối dài lặng câm.
Mộng nơi cỏ ngát ý xa xăm,
Trời rộng nhạn thưa âm.

Oanh ly tán,
Hoa tàn loạn,
Tịch mịch lầu hoa viện thẳm.
Hồng rơi tận lòng chớ quét đi,
Lưu lại đợi người về.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trăng sớm ló
Mây vương nhỏ
Bên gối không tiếng khò
Tỉnh mộng thường thường cỏ thơm nhớ
Trời cao tiếng nhạn có

Oanh hót tản
Cánh hoa loạn
Nhà sang viện sâu yên lặng
Từ đó cánh hồng không quét tận
Để chờ người múa hồi tâm.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời