永王東巡歌其八

長風掛席勢難回,
海動山傾古月摧。
君看帝子浮江日,
何似龍驤出峽來。

 

Vĩnh Vương đông tuần ca kỳ 08

Trường phong quải tịch thế nan hồi,
Hải động sơn khuynh cổ nguyệt[1] tồi.
Quân khán đế tử phù giang nhật,
Hà tự Long Tương[2] xuất Giáp lai.

 

Dịch nghĩa

Gió thổi lâu, quân ta kéo buồm lên,
Khí thế động biển nghiêng núi đi giết giặc khó mà hồi chuyển.
Các ông hãy coi người con của hoàng đế trên mặt sông hôm đó,
Thật giống Long Tương xuất quân từ Tam Giáp!


Chú thích:
[1]
Theo sách Thập lục quốc xuân thu thì “cổ nguyệt” là một ẩn ngữ ám chỉ quân phản loạn. Chữ “cổ” và “nguyệt” ghép thành chữ Hồ 胡, chỉ người Hồ, nên đây cũng có thể là cách chơi chữ.
[2]
Tức Long Tương tướng quân Vương Tuấn 王濬, nhận lệnh vua Tấn Vũ Đế thống lĩnh binh từ Tam Giáp theo sông Trường Giang tiến đánh nhà Đông Ngô (thời Tam Quốc), Đông Ngô diệt vong từ đó.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Gió thổi lâu quân ta buồm siết
Thế nghiêng non đi giết quân thù
Bạn coi con chúa giống như
Long Tương vượt kẽm diệt Ngô thời nào!


tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Gió lồng buồm kéo thế bừng bừng
Biển động non nghiêng đảo ánh trăng
Vương tử trên sông trùm vũ dũng
Tựa chừng Tam Giáp đến Long Tương


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Gió lâu quân kéo buồm dương lên,
Giết giặc chuyển hồi thế biển nghiêng.
Đế tử hãy xem sông mặt nước,
Xuất quân Tam Giáp diệt Ngô liền.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời