從隘店到寧明州

不勞兵力誕敷文,
張弛神機妙處分。
肯屑戎車勞萬里,
且將干羽舞三旬。
么麼小醜爲何物。
蠻貊遐陬亦我民。
時雨王師如再舉,
願彈駑鈍効從軍。

 

Tòng Ải Điếm đáo Ninh Minh châu

Bất lao binh lực đản phu văn,
Trương thỉ thần cơ diệu xử phân.
Khẳng tiết nhung xa lao vạn lý,
Thả tương can vũ vũ tam tuần.
Yêu ma tiểu xú vi hà vật.
Man mạch hà tưu diệc ngã dân.
Thời vũ vương sư như tái cử,
Nguyện đàn nô độn hiệu tòng quân.

 

Dịch nghĩa

Không cần phải mệt đến binh lực mà vẫn trải rộng được văn hiến,
Việc giương cung doạ nạt để phân xử thật là kỳ diệu.
Chuyện nhỏ mọn hà tất phải đem quân đi vạn dặm,
Chỉ cần giơ vũ lên múa là đủ.
Yêu ma tiểu xú thì có đáng gì,
Dù là man mọi ở nơi xa xôi nhưng cũng là dân ta thôi.
Đến khi vương sư lại cử binh lần nữa,
Thì dù nhút nhát ngu si ta cũng xin được theo quân về.


Nguyên chú: “Thời Quýnh phong văn sư kỳ dĩ định, hựu văn Nguyễn Huệ dĩ hàng, giai vị chuẩn đích, nhân tác” 時烱風聞師期已定,又聞阮惠已降,皆未準的,因作 (Lúc đó Quýnh nghe đồn đã định ngày xuất sư, lại nghe Nguyễn Huệ đã hàng, đều không chính xác, nên làm).

Dịch nghĩa của Nguyễn Duy Chính.

Đầu năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung đánh tan quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc. Lê Quýnh và nhóm tham mưu của ông sang Trung Quốc lần thứ hai để cầu viện nhà Thanh động binh thứ hai sang đánh Tây Sơn. Tháng tám năm đó, Lê Quýnh cùng bọn Ðoàn Vượng cả thảy 29 người đi theo ngả Ải Ðiếm, châu Ninh Minh để vào nội địa. Đoàn Lê Quýnh nhờ chuyển đạt lên rằng họ đã đến nơi rồi trở về Ải Điếm để chờ lệnh.

Lúc đầu cả đoàn Lê Quýnh bị đưa tới Ninh Minh, một khu vực gần biên giới, nửa tạm trú, nửa giam lỏng. Theo chính lời ông thì “nghe đồn rằng đã định kỳ hạn xuất sư, lại cũng nghe rằng Nguyễn Huệ đã cho người sang xin hàng và đã được chấp thuận.” Hai nguồn tin trái ngược nhau làm Lê Quýnh và đồng bọn không biết thực hư thế nào nhưng lại suy đoán một cách chủ quan rằng vì bị áp lực về việc nhà Thanh đem quân phục thù nên Nguyễn Huệ xin rút trở về Nam giao miền Bắc lại cho vua Lê theo đường lối “thắng mà không cần dụng binh” của nhà Thanh.

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]