1. An Nam đô hộ phủ

Quan Tuỳ lại có Khâu Hoà,
Đem dâng đồ tịch nước ta về Đường.
An Nam mới lại canh trương,
Đặt Đô hộ phủ theo đường Trung Hoa.
Mười hai châu lại chia ra:
Giao, Phong, Lục, Ái, Chi, Nga, Diễn, Tràng.
Vũ an, Phúc Lộ, Hoan, Thang,
Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài.

2. Mai Thúc Loan khởi nghĩa

Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc Đế mở ra,
Cũng toan quét sạch sơn hà một phương.
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp công.
Vận đời còn chửa hanh thông.
Nước non để giận anh hùng nghìn thu.

3. Giặc Đồ Bà

Trấn nam lại đổi tên châu,
Một đời canh cải trước sau mấy kỳ.
Xa khơi ngoài chốn biên thuỳ,
Đồ Bà giặc mọi đua bề phân tranh.
Bá Nghi hợp với Chính Bình,
Dẹp đoàn tiểu khấu, xây thành Đại La.

4. Phùng Hưng khởi nghĩa

Xiết bao phú trọng, chính hà,
Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng?
Đường lâm mới có Phùng Hưng,
Đã tài kiêu dũng, lại lưng phú hào.
Cõi Tây nổi việc cung đao,
Đô quân tôn hiệu, Tản Thao hiệp tình.
Đem quân thẳng đến vây thành,
Đại La thế bức, Chính Bình hồn tiêu.
Nhân phủ trị mở ngôi triều,
Phong châu một giải nhiếp điều mấy niên.
Đế hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.
Phùng An con nối thơ ngu,
Nghe quan nhu viễn bầy mưu hàng Đường.

5. Chuyện Lý Ông Trọng

Kể từ đô hộ Triệu Xương,
Thành La xây lại vững vàng hơn xưa.
Thuyền chơi qua bến sông Từ,
Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sao.
Thấy người hai trượng dài cao,
Bàn kinh, giảng truyện khác nào văn nhân.
Cùng nhau như gửi tâm thần,
Tỉnh ra mới rõ nguyên căn tỏ tường.
Lý Ông Trọng ở Thuỵ Hương,
Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
Làm quan hiệu uý đem quân ngữ Hồ.
Uy danh đã khiếp Hung Nô,
Người về Nam quốc, hình đồ Bắc phương.
Hàm dương đúc tượng người vàng,
Uy thừa còn giúp Tần hoàng phục xa.
Hương thơm cổ miếu tà tà,
Từ nay tu lý mới là phong quang.

6. Quan lại nhà Đường

Triệu công tuổi tác về Đường,
Quý Nguyên, Bùi Thái tranh quyền với nhau.
Triều đình kén kẻ trị châu,
Triệu công vâng mệnh xe thiều, lại sang.
Bản kiều vừa nhận dấu sương,
Bến hồng đã định, khói lang cũng tàn.
Trương Đan thay chức phiên hàn,
Tập nghề thuỷ chiến, tạo thuyền đồng mông.
Đại la mới đắp luỹ vòng,
Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái tu.
Quan tham ai chẳng oán thù,
Kìa như Tượng Cổ sư đồ bạn ly.
Quan hiền ai chẳng uý uy,
Kìa như Mả Tổng man di đầu hàng.
Nguyên Gia dời phủ Tô Giang,
Đến năm Bảo Lịch dời sang Tống Bình.
Giao Châu binh mã tung hoành,
Thăng Triều đã dẹp, Dương Thanh lại nồng.
Kìa ai tôn trở chiết xung,
Mã công tên Thực anh hùng kém chi.
Tiết thanh cảm vật mới kỳ,
Dưới dòng Hợp Phố châu đi cũng về.
Kiềm châu xa ruổi mã đề,
Hồng bay còn dấu tuyết nê chưa mòn.
Nhũng quan lại gặp Vũ Hồn,
Thành lâu lửa cháy, dinh đồn quân reo.
Đoàn công vâng mệnh Đường triều.
Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tan.
Thôi trung thổ, lại ngoại man,
Châu Nhai, Nguyên Hựu sai quan mấy lần.
Nho môn có kẻ tướng thần,
Họ Vương tên Thức kinh luân gồm tài.
Thành môn nghiêm nghị trong ngoài,
Trồng cây trúc mộc, tập bài cung đao.
Châu dân đều thấm ân cao,
Chiêm Thành, Chân Lạp cũng vào hiệu cung.

7. Giặc Nam Chiếu

Xe thiều vừa trở về Đông,
Giặc Man thừa khích ruổi giong cõi ngoài.
Vương Khoan, Lý Hộ phi tài,
Đường sai Thái Lập lĩnh bài Giao Châu.
Biên thư mấy bức về tâu,
Kẻ xin lưu thú, người cầu bãi binh.
Ghen công vi hoặc, Thái Kinh,
Thờ ơ để việc biên tình mặc ai.
Tiếc thay muôn dặm thành dài,
Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xung.
Ngu Hầu tiếp chiến bên sông,
Quyết liều một trận đều cùng quyên sinh.
Vua Đường tuyên chỉ triệt binh,
Bỏ hàm Đô hộ, đặt hành Giao Châu.
Trấn, đồn, cửa bể, đâu đâu,
Tống Nhung, Thừa Huấn hợp nhau một đường.
Dùng dằng nào dám tiến sang,
Tám ngàn quân bỏ cương tràng sạch không.
Dối tâu lại muốn cầu công,
Rồi ra sự phát đều cùng nghị lưu.

8. Cao Biền dẹp Nam Chiếu

Cao Biền là tướng lạc điêu,
Tài danh sớm đã dự vào giản tri.
Quân phù vâng lệnh chỉ huy,
Tiệp thư sai một tiểu ty về chầu.
Gia quan cho lĩnh tiết mao,
Đặt quân Tĩnh Hải biên vào bản chương.
Một châu hùng cứ xưng vương,
Thành La rộng mở, kim thang vững bền.
Tuần hành trải khắp sơn xuyên,
Đào Thiên uy cảng, thông thuyền vãng lai.
Chín năm khép mở ra tài,
Thành trì truyền dấu, miếu đài ghi công.
Rồi khi trở ngựa Hán Trung,
Cao Tầm là cháu nối dòng xưng phiên.
Họ Tăng, tên Cổn cũng hiền,
Giao Châu di ký còn truyền một chương.