Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Cận đại
Từ khoá: thuốc phiện (2) văn tế (96) tập Kiều (7)

Đăng bởi Vanachi vào 14/03/2007 09:24

Rủ bức rèm châu,
Đốt lò hương cũ.

Còn thoang thoảng trầm,
Thấy hiu hiu gió.

Thanh khí một dây một buộc ai giằng cho ra,
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ khiến người ngồi đó.

Mấy cành phù dung,
Trăm năm trong cõi.

Lạc suối Đào Nguyên đâu đến, giá càng gieo, phẩm càng cao,
Mua ở Bắc Kinh đưa về, ngàn cũng qua, sông cũng lội.

Một đời anh hùng được mấy, hễ thấy thời mê,
Đã lòng quân tử đa mang, được lời như cởi.

Đặt giường thất bảo,
Khép cửa phòng thu.

Khi tựa gối,
Khi cúi đầu.

Liền tay ngắm nghía chốn nằm, thay đen đổi trắng,
Ngọn đèn hiu hắt trong lò, nhả ngọc phun châu.

Dập dìu tài tử giai nhân, đèn khuya chung bóng,
Đua nhau vương tôn quí khách, tơ liễu buông mành.

Đuốc hoa để đó nàng nằm, cho mê mẩn đời cho lăn lóc đá.
Hương lửa sẵn đây ta đốt, càng quen thuộc nết càng dan díu tình.

Ngoài ngàn dặm,
Chốc ba đông.

Hương càng đượm,
Lửa càng nồng.

Tiễn đưa một chén quan hà, gọi là gặp gỡ,
Há nợ ba sinh hương lửa, chốc để lạnh lùng.

Trướng loan hiu hắt, Đồng Tước một nền xuân toả,
Tay tiên dìu dặt, Lam Điền hạt ngọc ấm đông.

Buộc lấy mình vào,
Gắn bó tất giao.

Thầm mong trộm nhớ,
Rày ước mai ao.

Được một vài phân, hương khói một nhà thức nức,
Có ba trăm lạng, yến anh ngoài cửa xôn xao.

Mái Tây để lạnh hương nguyền, mai dàu giọt tuyết, gương lờ nước thuỷ,
Song the trông chừng khói ngất, lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao.

Gái sắc tài trai,
Mấy mặt làng chơi.

Ngày xanh mòn mỏi,
Má hồng phôi phai.

Từ khi hơi tiếng vừa quen một ngày nặng một,
Đến lúc phong trần rất mực, mười phân vẹn mười.

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da; bây giờ lạt phấn phai hương, mười phần xuân có gầy ba bốn,
Thao lược gồm tài, côn quyền hơn sức; khi đà xương mòn thịt nát, chín chục thiều quang ngoài sáu mươi.

Những kẻ hàm én mày ngài, ba sinh cho phỉ mười nguyền, rồi cũng nợ nần mang lấy,
Những người buôn hùm bán hổ, trăm năm đổ không một trận, bao nhiêu vốn liếng đi đời.

Não nùng thu ba,
Vắn dài châu sa.

Rằng quen mất nết,
Biết gỡ cho ra!

Chơi cho liễu chán hoa chê, rõ mặt bây giờ rồi sẽ!
Làm cho xiêu đình đổ quán, đoạn trường lúc ấy dở mà!

Có giở bài bây, đến cơ hội này,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây?

Đã tu tu trót qua thì thôi, xin chớ rày lần mai lữa,
Hoạ dần dần bớt chút nào được, nghe ra ngậm đắng nuốt cay.

Khi hương sớm,
Khi trà trưa.

Bàn vây điểm nước,
Hoạ đàn đường tơ.

Bầu tiên rót rượu,
Câu thần nối thơ.

Những thấy truy hoan trong cuộc, thức thức sẵn bày,
Làm chi đeo thói khuynh thành, khăng khăng mình buộc.

Mà gầy như mai,
Mà vàng như trúc.

Mà cau đôi mày,
Mà vò chín khúc.

Tiếc chi đến hương, thương chi đến ngọc, đem tình cầm sắt đổi ra kỳ,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn, nát thân bồ liễu đền nghì trúc.

Gẫm cơ hội ngộ, mua vui cũng được vài canh,
Dại nết chơi bời, đau đớn trải qua một cuộc.

Nghĩ rằng:
Trăm năm tính cuộc,
Muôn sự tại trời.

Cho thanh cao thời thanh cao mới được,
Bắt phong trần phải phong trần như ai.

Ai ơi! Gìn ngọc giữ vàng, về sau còn nhiều hưởng thụ,
Bỏ chi chim lồng cá chậu, làng chơi chưa dễ mấy người.


Bài phú này theo thể tập Kiều, lẩy Kiều, được giới nho sĩ đương thời ca tụng vì lời đẹp, ý sâu, tập Kiều và lẩy Kiều đắc thể.