登余干古縣城

孤城上與白雲齊,
萬古荒涼楚水西。
官舍已經秋草沒,
女牆猶在夜烏啼。
平沙渺渺迷人遠,
落日亭亭向客低。
飛鳥不知陵谷變,
朝來暮去弋陽溪。

 

Đăng Dư Can cổ huyện thành

Cô thành thượng dữ bạch vân tề,
Vạn cổ hoang lương Sở thuỷ tê (tây).
Quan xá dĩ kinh thu thảo một,
Nữ tường do tại dạ ô đề.
Bình sa diểu diểu mê nhân viễn,
Lạc nhật đình đình hướng khách đê.
Phi điểu bất tri lăng cốc biến,
Triêu lai mộ khứ dặc dương khê.

 

Dịch nghĩa

Cái thành chơ vơ này, lầu cao gần tới mây trắng,
Nằm bên bờ tây sông Sở cũ, bỏ hoang đã nhiều năm.
Chỗ quan huyện ở nay chìm trong cỏ thu dại,
Tường bao quanh thành là chỗ cho quạ về ngủ.
Bãi hoang bát ngát làm khách xem mê mải,
Mặt trời chiều to lớn lặn dần trước mặt khách.
Chim bay không biết cảnh tang thưong biến đồi,
Vẫn cứ sáng tới chiều về nẻo suối tối om.


Dư Can nay là huyện cùng tên thuộc tỉnh Giang Tây. Tác giả làm bài này khoảng năm 761 khi bị biếm trích đi Phan châu đã mãn hạn, trên đường trở về kinh đô, nhân lên thăm cổ thành của huyện này.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thành chơ vơ lầu ngang mây trắng
Tây Sở giang bỏ vắng nhiều năm
Nhà quan cỏ mọc ngút ngàn
Tường bao là chỗ quạ an giấc nồng
Bãi bao la khách trông mê mải
Mặt trời chiều chậm rãi lặn dần
Chim không biết cảnh thương tâm
Sáng đi kiếm sống, chiều lam bay về

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Thành đơn mây trắng sánh cao ngang
Sông Sở phía tây vạn cổ hoang
Phủ đệ trải bao thu cỏ vắng
Tường thành vẫn đó quạ kêu vang
Cát bằng mờ mịt người xa lạc
Trời lặn mênh mang khách cúi buông
Chim quạ biết đâu nhiều biến đổi
Chiều đi sáng đến suối Dặc Dương.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời