宣州謝眺樓餞別校書叔雲

棄我去者,
昨日之日不可留;
亂我心者,
今日之日多煩憂。
長風萬里送秋雁,
對此可以酣高樓。
蓬萊文章建安骨,
中間小謝又清發。
俱懷逸興壯思飛,
欲上青天攬明月。
抽刀斷水水更流,
舉杯銷愁愁更愁。
人生在世不稱意,
明朝散髮弄扁舟。

 

Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân

Khí ngã khứ giả,
Tạc nhật chi nhật bất khả lưu.
Loạn ngã tâm giả,
Kim nhật chi nhật đa phiền ưu.
Trường phong vạn lý tống thu nhạn,
Đối thử khả dĩ hàm cao lâu.
Bồng Lai văn chương Kiến An cốt,
Trung gian Tiểu Tạ hựu thanh phát.
Câu hoài dật hứng tráng tứ phi,
Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt.
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu,
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu.
Nhân sinh tại thế bất xứng ý,
Minh triêu tán phát lộng biên chu.

 

Dịch nghĩa

Người bỏ ta đi mất,
Ngày hôm qua không thể giữ lại.
Người làm loạn tâm ta,
Ngày hôm nay thật lắm ưu phiền.
Gió thổi dài muôn dặm tiễn nhạn thu,
Trước cảnh có thể chuốc rượu say trên lầu cao.
Văn chương Bồng Lai, cốt cách Kiến An,
Trong đó có Tiểu Tạ là người cao nhã.
Lòng đầy dật hứng, tứ thơ hùng tráng bay lên,
Muốn lên đến trời xanh để hái trăng sáng.
Rút dao chém nước, nước càng chảy,
Nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu.
Người sống ở đời không được như ý,
Sớm mai rũ tóc xuôi thuyền bên sông.


(Năm 753)

Tuyên Châu nay là huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy. Tạ Diễu người Dương Hạ thuộc Nam Tề thời Nam Bắc triều, tự Pháp Huy, văn chương thanh tú, hoa lệ, giỏi làm thơ ngũ ngôn, từng làm thái thú Tuyên Thành. Lầu Tạ Diễu mang tên ông. Hiệu thư thúc Vân tức quan hiệu thư lang là chú của tác giả, tên Lý Vân 李雲.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 3 trang (29 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

lãm

Theo cháu thì nó phải là chữ lãm 攬 (hái) chứ không thể là 覽 (ngắm) được vì nếu ngắm thì đâu cần phải lên trời mới ngắm được, nên bản dịch nghĩa có lỗi. Cảm ơn bác lần nữa.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

...

Trong "Tam bách thủ" của Trần Trọng Kim, tựa bài nầy gồm 11 chữ, như trên Thi viện chúng ta.

Nhưng trong "Đường thi tam bách thủ bổ chú" do Hành Đường thoái sĩ soạn và Trần Bá Anh bổ chú, thì chỉ tựa bài gồm 10 chữ, không có chữ "tiễn"...

Và, cái lầu, nơi có cái "sự" nầy, thực ra, phải có tên là "Tạ Diểu", không phải là "Tạ Diễu" - (Xin xem thêm ở phần Chú thích)


Bản dịch của Trần Trọng Kim

TIỄN BIỆT HIỆU THU THÚC VÂN

Bỏ ta đi đó đã rồi
Là ngày bữa trước vãn hồi được sao
Lòng ta rối loạn vì đâu,
Vì ngày hiện tại dồi dào nỗi lo
Ngoài muôn dặm gió thu đưa nhạn,
Trên lầu cao hãy cạn chén mời,
Kiến An văn vật Bồng Lai
Trung gian Tiểu Tạ trổ tài thanh tao
Đem dật hứng chí cao bay tít
Lên trời xanh, nhật nguyệt xem chơi
Rút dao chém nước nước trôi
Tiêu sầu nhấc chén, lại đôi nỗi sầu
Ở đời vừa ý được đâu,
Sáng ngày xoã tóc tiêu dao trên thuyền.


Bản dịch nghĩa của Ngô Văn Phú

TRÊN LẦU TẠ DIỂU Ở TUYÊN CHÂU
TIỄN QUAN HIỆU THƯ THÚC VÂN

Bỏ ta mà đi
Hôm qua đã qua không sao giữ lại,
Làm rối lòng ta
Cái ngày hôm nay là ngày lắm chuyện lo phiền.
Gió dài muôn dặm tiễn nhạn mùa thu,
Trước cảnh này, có thể say ngất trên lầu cao.
Văn chương chốn Bồng Lai cốt cách đời Kiến An
Trong đám này Tiểu Tạ lại thanh tao rất mực.
Lòng đầy tứ thơ phóng khoáng,
                           ý mạnh mẽ tung tẩy.
Muốn bay lên trời xanh ngắm trăng sáng
Rút dao chém nước, nước vẫn chảy.
Nghiêng chén tiêu sầu, sầu thêm sầu,
Người sống trên đời nào được như ý,
Sớm mai xoã tóc, thả thuyền con rong chơi.


Bản dịch thơ của Ngô Văn Phú

TIỄN QUAN HIỆU THƯ THÚC VÂN TRÊN LẦU TẠ DIỂU

Bỏ ta mà đi
Ngày hôm qua giữ lại làm sao!
Làm rối lòng ta
Ngày hôm nay lắm nỗi phiền ưu
Gió rong muôn dặm đưa thu nhạn,
Cảnh ấy nên say ngất trước lầu.
Văn chương Bồng Lai, Kiến An cốt cách,
Ông Tạ tứ lạ, ý thanh tao,
Muốn lên trời xanh ngắm trăng sáng
Vung dao chém nước, nước chảy ào.
Ở đời, người đâu được xứng ý,
Thuyền con, xoã tóc, sớm khua chèo.


(1) Tạ Diểu lâu: Theo Giang Nam thống chí, lầu ở phía bắc Ninh Quốc phủ, do Tạ Diểu khi làm Thái thú Tuyên Châu cho làm. Phủ Ninh Quốc đời Hán gọi là Tuyên Thành, đời Tuỳ, Đường gọi là Tuyên Châu.

Theo Nam sử. Tạ Diểu, tên chữ là Huyền Huy, văn chương thanh nhã, đẹp đẽ.

(2) Bồng Lai văn chương: Văn chương Bồng Lai. Bồng Lai là chốn tiên ở ngoài biển. Văn chương Bồng Lai, ý muốn nói đến văn chương thoát tục, theo kiểu đạo Lão, gần với trời đất thiên nhiên, lấy thanh nhã làm tiêu chí.

(3) Kiến An: Theo Thương Lăng thi thoại, cuối đời Kiến An, Đông Hán có các nhà văn như Khổng Súc, Vương Sán, Trần Lâm, Từ Cán, Lưu Chinh, Ưng Tràng, Nguyên Vũ và cha con Tào Tháo (làm thơ), người đời gọi là cốt cách Kiến An. Kiến An là niên hiệu đời Hán Hiến Đế.

(4) Tiểu Tạ: Tức Tạ Huệ Liên, văn chương có tiếng thanh tao.

(5) Tráng tứ phi: Tứ mạnh mẽ, cao vút. Thơ Lưu Trinh "Quân hầu đa tráng trí, văn nhã tung hoành phi", nghĩa là: "Nhà vua nhiều tráng trí, Hơi văn ngang dọc bay".
Thử hữu tắc bỉ hữu
Thử vô tắc bỉ vô
Thử sinh tắc bỉ sinh
Thử diệt tắc bỉ diệt
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Tạ Diễu

Kỳ thực em cũng không rõ chữ 眺 âm Diểu/Diễu từ đâu ra. Tra thử các từ điển Đào Duy Anh không có chữ này, Thiều Chửu chỉ có âm Thiếu. Trong Khang Hy từ điển ghi Đường vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận, tất cả đều có âm Thiếu hoặc Thiểu. Em vẫn thấy các sách VN phiên âm Tạ Diểu hoặc Tạ Diễu, nhưng không rõ bắt đầu từ đâu. Trong TV cũng có tác giả này: http://www.thivien.net/vi...ID=fi0AnZEbTlY085rk8ctF-w

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Diễu/ Diểu

Quả thực, 眺 âm ra "Diểu", "hơi bị" hiếm (!) và thật sự rất ít gặp. Đây là mình theo nguyên bản mà bàn thôi (bản mình dùng là Đường thi tam bách thủ bổ chú" (khắc gỗ và bản giấy, kể cả bản mới dịch của Ngô Văn Phú).

Thực ra, bạn vẫn có thể tìm ra âm "diểu, thiếu" của chữ 眺 trên Bộ Từ điển Hán Việt Thiều Chửu ( Ví dụ: tại dây http://sager-pc.cs.nyu.ed...p;Maw=30522&dk=1)

Nhưng mình vẫn bảo lưu ý kiến: chữ 眺 không thể phiên ra diễu, thiểu được. Chữ nầy thuộc bộ Mục, trong khi, âm "diễu" theo mình biết, là chữ thuộc bộ Điểu (xin lỗi, mấy bữa nay khá tham, nên giờ mắt mũi toét nhè, nên khiếu phần chữ Hán nha), nghĩa chỉ tiếng chim trĩ mái gáy. Kinh Thi (Bội Phong, Báo hữu khổ diệp): "Chim trĩ mái gáy tìm bạn" (Hữu diễu trĩ minh).

Thử hữu tắc bỉ hữu
Thử vô tắc bỉ vô
Thử sinh tắc bỉ sinh
Thử diệt tắc bỉ diệt
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Diểu/diễu

Không hiểu bản Thiều Chửu điện tử kia có bổ sung gì không, chứ em tra TC bằng giấy thì chỉ có âm Thiếu.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản phiên âm khác

Tôi có thấy một bản phiên âm hơi khác một chút ở hai chữ. Cụ thể là:

1/ Câu "Cụ hoài dật hứng tráng tứ phi" thì phiên là "Câu hoài..."

2/ Câu "Minh triêu tán phát lộng biên chu" thì phiên là "thiên chu".

Xin các bạn vui lòng chỉ dẫn.

Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

扁舟

@Vodanhthi
2/ Câu "Minh triêu tán phát lộng biên chu" phiên là "thiên chu".
TĐ Thiều Chửu, phiên âm là Thiên Chu: Thuyền nhỏ
Quyển Thơ Đường (NXB Văn học Tập 2, trang 111) Phiên là Biên chu; có thể chuyển âm từ Biển.
Theo từ diển của Trung quốc, có dẫn:
扁舟 piānzhōu
Các chữ Thiên 偏篇犏 đều có âm đọc là piān

Nên tôi thấy, phiên là Thiên sát âm đọc hơn Biên.
Nhưng vì thói quen, và vì nghĩa không đổi, có khi, hậu sinh chúng ta đành phải chấp nhận cả 2 cách phiên âm .

Chữ 俱 phiên là Câu đúng với nghĩa Toàn, Đều, Cùng.
Không biết phiên là Cụ, do căn cứ nào.
Biết đến đấy, chỉ xin dám nói như vậy.
Hà Như.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

sai sót

Xin lỗi vì trước cháu không để ý post của bác vodanhthi. Chữ "câu" đúng là bị phiên âm sai.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

謝惠連

Bài thơ có Chú thích: Tiểu Tạ
Tức Tạ Huệ Liên 謝惠連, em của Tạ Linh Vận 謝靈運 đời Lục Triều, nổi tiếng văn hay.

Xin cho biết thêm: Vậy Tiểu Tạ có phải là Tạ Diểu (hoặc Diễu) không ?
Thơ Đường Tập II , NXB Văn học, 1987, trang 111, chú:
Tiểu Tạ : Tạ Diểu .
Và chỉ vậy thôi (chưa có yếu tố thông tin Tức Tạ Huệ Liên 謝惠連, em của Tạ Linh Vận 謝靈運)

Và Ngài "quan hiệu thư tên Thúc Vân" là ai ? mà làm cho Lý Bạch phải thốt lên:
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu,
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu.
Nếu biết được, Bài thơ sẽ hay lên bội phần.
Xin cảm ơn trước.
Hà Như.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Hiệu thư thúc Vân

Cháu có xem lại, "thúc Vân" không phải là tên mà thúc ở đây là chú, chỉ có Vân là tên. Hiệu thư thúc Vân = ông chú làm chức Hiệu thư lang, tên Vân. Lý Bạch còn có một bài "Tiễn Hiệu thư thúc Vân".

Theo từ điển ở đây: http://www.zdic.net/cd/ci...cE5ZdicB0Zdic8F110014.htm thì Tiểu Tạ có thể chỉ cả Huệ Liên lẫn Tạ Diễu, chỗ chú thích Tạ Diễu dẫn luôn 1 thí dụ là câu ở bài thơ này. Nhưng theo 1 cuốn chú giải thơ Lý Bạch cháu có thì lại chú thích là Tạ Huệ Liên. Có vẻ như ở đây chưa được thống nhất rồi. Ở đây LB có ý ca ngợi văn chương ông chú mình, nhưng cả Huệ Liên và Tạ Diễu đều hay, có lẽ khó mà biết LB định ví với ai.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 3 trang (29 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối