Than rằng:
Mây Hồng Lĩnh một vùng thấp thoáng, trông chừng cảnh vật luống buồn tênh;
Nước Thâm Hà chín khúc quanh co, nhớ nỗi xa xôi càng tủi khổ.

Tình tự rắp vùi ba tấc đất, ngậm ngùi kẻ ở với người đi;
Nắng mưa cách trở mấy năm trời, mộng tưởng cha đâu thời con đó.

Nhớ cha xưa:
Nết đất trung trinh;
Tư trời thông tỏ.

Cờ thần đạo thánh, thú vui chơi đành cướp giải phong trần;
Chữ biết nghề hay, đường bẩm chí cũng trong tay văn võ.

Lúc nam nhi chưa phỉ nguyện tang bồng;
Đương vận hội lại gặp cơn sóng gió.

Cờ nghĩa phất giữa năm Ất Dậu, đem tài tình rắp trả nợ giang sơn;
Trát Cần Vương xem trước cửa viên môn, lấy chí khí để đền ơn quân phụ.

Trẻ hoá nhi trách lắm nỗi vô tình;
Trai anh kiệt khó bàn khi vị ngộ.

Mười năm Đâu Lĩnh, nước thẳm non khơi;
Một phút Ô thành, mây mờ gió ủ.

Những tưởng ngàn thu đài các, quyết chí làm nên;
Ai ngờ một áng cương thường, đem thân đi bỏ.

Ngao ngán nhẽ gan vàng dạ sắt, tấm trung thành chưa giả nợ non sông;
Chua xót thay vóc ngọc lòng son, thân tiết nghĩa phó mặc cho cây cỏ.

Tiếc là tiếc một trường oanh liệt, dày đội chưa cam trong phế phủ, cửa phù sinh đã trở cuộc tang thương;
Thương là thương một đấng anh tài, ấm no chưa trả nợ hình hài, câu li biệt đã chia đường kim cổ.

Khi tòng phụ một mình con thơ ấu, ngán nỗi chân trời góc bể, biết ai nương tựa buổi thần hôn;
Lúc lâm chung đành chiếc bóng chơi vơi, thương ôi đất khách quê người, dễ mấy thăm dò nơi trủng mộ.

Đã một nỗi cha già mẹ yếu, ngàn năm dễ gửi lời định tỉnh, dạ sinh li đành phó mặc chị em;
Lại thêm đường vợ goá con côi, trăm năm chưa dứt mối chung tình, nỗi bảo dưỡng cậy nhờ nơi môn bộ.

Nắm xương khách địa, tấm trung hồn chưa trả nợ quân vương;
Giọt máu thâm tình, đường hiếu niệm dễ tìm nơi báo bổ.

Rày nhân:
Lễ đặt chiêu hồn;
Nghinh hồi cố thổ.

Nhờ thánh tổ hữu linh cấp dẫn, ngọn cờ phan phất phất giống dường không;
Đặng phụ thân tá khẩu thông truyền, việc gia sự rành rành như mới đó.

Nay đã hồn yên phách thoả, thần lại cố hương;
Gọi là lễ bạc lòng thành, ngu theo phép cổ.

Thiêng xin về quê cũ, cho hương thơm lửa rạng, cửa từ đường theo nối gót cha ông;
Khôn xin hộ họ hàng, cho cháu thảo con hiền, việc gia thất vững vàng nền phúc thọ.

Hỡi ôi! Có thiêng xin thấu tỏ!


Lê Đình Quý người xã Trường Xuân, huyện La Sơn (nay là xã Đức Tân, Đức Thọ, Hà Tĩnh), tham gia phong trào Cần Vương năm Ất Dậu (1885), được phong chức Hiệp quản. Ông bị Pháp bắt đày vào miền núi Quảng Trị và chết ở đó. Về sau con ông xin được bốc mộ đưa về quê. Bài văn trên đây đọc tế ông lúc ấy. Theo các cụ già con cháu họ Lê thì bài văn do ông Tú Vận ở Hương Sơn làm, tuy nhiên đến nay chưa có thông tin thêm về tác giả nên tạm xếp vào mục khuyết danh. Bản trên đây do cụ Lê Chưởng, cháu họ Lê Đình Quý đọc lại, và cụ Lê Hanh, cháu nội của ông ghi và cung cấp.

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]