感懷

當初恨不死忠貞,
千里羈臣趕玊京。
箕子西行悲麥秀,
文山北渡嘆佯零。
關河舉目鄕情重,
鍾鼎擡頭世味輕。
遙望宋山何處是,
吾先烈祖舊墳塋。

 

Cảm hoài

Đương sơ hận bất tử trung trinh,
Thiên lý cơ thần sấn ngọc kinh.
Cơ Tử tây hành bi mạch tú,
Văn Sơn bắc độ thán dương linh.
Quan hà cử mục hương tình trọng,
Chung đỉnh đài đầu thế vị khinh.
Dao vọng Tống Sơn hà xứ thị,
Ngô tiên liệt tổ cựu phần dinh.

 

Dịch nghĩa

Xưa kia đã ân hận chẳng được chết sớm để giữ cho toàn vẹn lòng trung,
Nay đành là kẻ bầy tôi bị trói buộc ở nơi xa xôi ngàn dặm đến chốn ngọc kinh này.
Ông Cơ Tử khi đi về phía tây thấy buồn vì lúa tốt,
Văn Sơn đi sang mạn bắc luống than thở hoài vì nỗi lênh đênh.
Mỗi khi nom thấy non sông trước mắt, lại thêm nặng lòng tưởng nhớ quê hương,
Quay đầu nơi chung đỉnh, lại thấy mùi đời đáng khinh.
Xa trông về núi Tống Sơn, nào biết ở đầu?
Mà đâu là nơi phần mộ tổ tiên, chốn thâm tình của ta?


Bài thơ chép trong Tang thương ngẫu lục, không ghi tiêu đề và tác giả, chỉ ghi là của một di thần triều Lê Mạt cảm thán về thời cuộc.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đạm Nguyên

Hận xưa chẳng chết, vẹn trung trinh,
Ngàn dặm ky thần đến ngọc kinh.
Cơ Tử, phương đoài, sầu lúa tốt,
Văn Sơn, bến bắc, ngán lênh đênh.
Quan hà ngước mắt hương tình nặng,
Chung đỉnh quay đầu, thế vị khinh.
Xa ngóng Tống Sơn đâu đó tá,
Tổ tiên phần mộ chốn thâm tình.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Giai Mộc

Xưa hận chẳng vẹn nỗi trung trinh,
Nay thân vạn dặm chốn ngọc kinh.
Phương tây, Cơ Tử sầu lúa trổ,
Bắc mạn, Văn Sơn khổ thịnh vong.
Nặng lòng non nước buổi hưng vinh,
Chung đỉnh quay đầu nổi khinh đời.
Tống Sơn ngàn dặm tìm đâu thấy,
Đất tiên, mộ tổ gửi hồn ta?

Chưa có đánh giá nào
Trả lời