Thơ » Trung Quốc » Chu » Khổng Tử » Thi kinh (Kinh thi) » Nhã » Đại nhã » Đãng chi thập
旱既太甚,
散無友紀。
鞫哉庶正,
疚哉冢宰。
趣馬師氏,
膳夫左右;
靡人不周,
無不能止。
瞻仰昊天,
云如何里?
Hạn ký thái thậm,
Tán vô hữu kỷ.
Cúc tai thứ chính,
Cứu tai trủng tể.
Thú mã sư thị,
Thiện phu tả hữu;
Mỹ nhân bất chu,
Vô bất năng chỉ.
Chiêm ngưỡng hạo thiên,
Vân như hà lý?
Nắng hạn đã nặng lắm rồi,
(Triều đình) tán loạn chẳng còn kỷ cương gì nữa.
Khốn khổ thay các vị trưởng quan,
Buồn khổ thay quan tể tướng.
Từ quan giữ ngựa cho đến thái sư,
Từ quan đầu bếp cho đến các quan tả hữu;
Chẳng ai là không cứu tế dân chúng,
Không ai (lấy cớ) không làm được mà ngừng.
Ngửa mặt trông lên trời cao,
Hỏi sao (ta) lại (khổ sở) thế này?
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày Hôm nay 22:51
Nắng hạn đã vô cùng cấp thiết,
Tôi lìa tan, mất hết kỷ cương.
Trưởng quan cùng khổ phi thường,
Còn ngài trủng tể thì đương bịnh nàn.
Quan giữ ngựa cùng quan trấn thủ,
Đầu bếp và tả hữu các quan.
Không ai chẳng cứu dân gian,
Không ai chẳng thể cứu nàn, nhưng không,
Trên trời cao, ngẩng trông mà hỏi:
Sao khiến ta lắm nỗi khổ sầu?