* Khiêm Lăng (Lăng Tự Đức): khởi công năm 1864 – hoàn thành năm 1867. Lăng được xây dựng ở Hữu ngạn Sông Hương, trên núi Dương Xuân, làng Dương Xuân Thượng (cách Huế chừng 8km) giữa một rừng thông bát ngát.

** Triệu Miếu: là miếu thờ ông Nguyễn Kim, còn gọi là Cam (1468-1545), thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Nguyễn Kim là người đã phò Lê Trang Tông khởi đầu cho sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Năm 1545, ông bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Sau này, triều Nguyễn truy tôn miếu hiệu cho ông là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế.

Triệu Miếu được xây dựng năm Gia Long thứ 3 (1804) ở phía đông nam, bên trong Hoàng Thành, phía bắc của Thái Miếu. Về hình thức và qui mô kiến trúc, Triệu Miếu tương tự như Hưng Miếu, miếu gồm 1 tòa điện chính theo lối nhà kép, chính đường 3 gian 2 chái, tiền đường 5 gian 2 chái đơn. Hai bên điện chính có Thần Khố (phía đông) và Thần Trù (phía tây). Khuôn viên khu miếu hình chữ nhật, tường phía nam gắn liền với tường Thái Miếu. Bên trong điện chính đặt án thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế và Hoàng hậu. Mỗi năm tổ chức 5 lần tế tương tự ở Thái Miếu

*** Chương Đức: là cửa thành phía tây của Hoàng Thành - Đại Nội Huế, một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu của Quần thể di tích Cố đô Huế.

**** Cửu Đỉnh: là một công trình nghệ thuật bằng đồng có giá trị nhất tại Huế nói riêng, và Việt Nam nói chung. Tất cả đều được đúc ở Huế vào cuối năm 1835, hoàn thành vào đầu năm 1837, dùng làm biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước và ước mơ triều đại mãi vững bền. Mỗi đỉnh có khắc một tên riêng bằng chữ Hán, tên được lấy từ miếu hiệu (tên để thờ cúng) của một vị vua nhà Nguyễn. Và cái đỉnh đó được xem là biểu tượng của vị vua đó

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)