Tứ bất tử Chử tiên là một,
Đền Đa Hoà thiêng nhất cổ kim.
Ước ao về đấy cung chiêm:
Trước là lễ Thánh, sau tìm thú quê.
Đền mở hội gặp kỳ xuân quý,
Tiết huyên hoà mọi vẻ mọi tươi.
Thuyền lan, chèo quế thểnh thơi,
Năm ba thi hữu, một hai thư đồng.
Từ Hà Nội thuận dòng xuôi lái,
Qua Bát Tràng rồi tới Văn Giang,
Phụng Công, Sâm Khố, Tàm Tang,
Bên kia Sâm Thị, Chương Dương cũng gần.
Này Mễ Sở, bến Tuần thuở trước,
Thuế thuyền bè xuôi ngược thu dây,
Mà là chợ Mễ ngày nay:
Dưới thuyền, trên bến; buôn may, bán hời.
Kể nhân vật là nơi văn hiến,
Dân tám làng lương thiện làm ăn,
Yên vui nhờ cậy sức thần:
Đình đa, tài vượng, thói thuần, tục hay.
Đầm Dạ Trạch mây bay lảng lảng,
Bãi Tự Nhiên trăng sáng mập mờ...
Hai ngàn năm trước đến giờ,
Dấu thiêng chừng vẫn vật vờ đâu đây!
Hỏi cố lão cho hay thần tích:
Xưa Hùng Vương ngự lịch nước ta.
Chử gia tân có một nhà,
Cảnh nghèo, mẹ mất, cha già lênh đênh.
Dốc lòng hiếu sự sinh, sự tử,
Tiếng kêu than nghe đã thấu trời...
Bỗng đâu chúa ngự thuyền chơi,
Cho hay tác hợp cơ trời lạ thay!
Duyên hương lửa kiếp này mới bén,
Mà thiên cung ước hẹn từ lâu,
Sánh duyên loan phượng hảo cầu,
Quỳnh am kết bạn, núi Hầu cùng ta.
Đạo lực đủ phép mầu gậy, nón,
Hoá phép ra khắp chốn lâu đài.
Cơ hoang, dịch lệ đòi nơi,
Nhà nhà thoát khổ, người người đội ơn.
Nhân một buổi thừa nhàn du ngoạn,
Gặp Tây Nương cũng bạn nhà tiên,
Cùng nhau cá nước vầy duyên,
Hoàng, Anh chuyện cũ hợp truyền phong lưu.
Hạn trần mãn, về chầu trên phủ,
Chợt ngày kia ngựa gió, xe mây,
Rủ nhau chắp cánh cùng bay,
Gót tiên thoăn thoắt về ngay đế đình.
Cả nhà cửa đều thành huyền hoá,
Dấu tiên còn Nhất Dạ Trạch đây.
Linh thanh lẫm liệt xưa nay,
Cư dân phụng tự đến rày đã lâu.
Khấn là ứng, có cầu là được,
Khắp phương dân đều được phước dư.
Tí dân ơn đức có thừa,
Còn công hộ quốc sử thư rõ ràng:
Khi đô hộ tướng Lương tàn ngược,
Quân Triệu mình lực bạc, thế cô,
Lui quân Dạ Trạch, từ đồ,
Móng rồng trợ thuận cũng nhờ oai linh.
Khi nước bị người Minh xâm chiếm,
Trong núi Lam, lưỡi kiếm đương mài,
Chiêm bao thần bảo Ức Trai,
Vua Lê, tôi Nguyễn, một lời phân minh.
Chuyện linh ứng rành rành để lại,
Sắc thượng thần lịch đại gia phong.
Nghe lời cố lão thuật xong,
Mơ màng nước Nhược, non Bồng chi đây…
Ngẫm đức “hiếu” xưa nay thật quý,
“Hiếu” là thần, “hiếu” lại là tiên.
Hiếu tâm cảm đến Hoàng thiên,
Ngu quan sánh với Chử tiên khác gì:
Cũng nhị nữ vu quy hoà mục,
Cũng đắc danh, đắc lộc vẹn tuyền.
Thanh nhàn muôn kiếp cung tiên,
Hương hoa sùng bái đình đền khắp nơi.
Đạo chồng vợ một đời sất phối,
Cốt tài đương, đức đối, hai bên.
Kể chi giàu khó, sang hèn,
Giai nhân, hiếu tử đẹp duyên nào bằng!
Coi phú quý dửng dưng dép nát,
Chí thanh cao siêu thoát cõi trần,
Mặc ai điện Sở, lầu Tần,
Cái vui vui ở tinh thần mới vui.
Kìa những kẻ miệt mài danh lợi,
Suốt ngày đêm bối rối lo âu.
Vinh hoa sung sướng gì đâu,
Sao bằng lạc đạo, vô cầu, thích hơn?
Gặp những buổi tai nạn giặc giã,
Đem lòng nhân giúp đỡ cưu mang.
Danh không tưởng, lợi không màng,
Khoái tâm được thấy quốc cường, dân an.
Vui riêng thú mây ngàn, hạc nội,
Ngó trần gian nhiều nỗi thảm thương.
Mịt mù bình hoả bốn phương,
Xót thay bể máu, non xương khắp miền!
Mắt bồ tát hẳn nhìn không nỡ,
Giữ yên cho cảnh thổ trời Nam:
Một vùng biển lặng, sóng êm,
Âu ca thánh đức, năm năm hội đền...


Đền Đa Hoà ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, thờ Tiên Dung và Chử Đông Tử. Rằm tháng ba năm 1942, hội đền mở cuộc thi thơ. Bài này của ông Hoàng Mạnh Huân được 19 điểm trúng giải nhất, ngoài ra có ông Từ Long được 17 điểm trúng giải nhì, ông Lê Viên được 16 điểm trúng giải ba, ông Lê Thế Du được 15 điểm trúng giải tư, ông Hoàng Sĩ Dư được 13 điểm trúng giải năm, ông Trần Lâm Kiều được 12 điểm trúng giải sáu.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]