Đăng bởi Vanachi vào 27/06/2005 22:42, đã sửa 6 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 17/11/2014 18:30

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

         *

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

         *

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

         *

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời khôn nói năng

Đêm buông sâu xuống dòng sông Đuống
Ta mài lưỡi cuốc
Ta uốn lưỡi liềm
Ta vót gậy nhọn
Ta rũa mác dài
Ta xây thành kháng chiến ngày mai
Lao xao hàng cây bụi chuối
Im lìm miếu đổ chùa hoang
Chập chờn đom đóm bay ngang
Báo tin khủng khiếp
Cho giặc kinh hoàng
Từng từng tiếng súng vang vang
Trong đêm khuya thoảng cung đàn tự do
Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ
Xoá cho ta hết những giờ thảm thương

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa
Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay

“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu...”

         *

Em ơi, đừng hát nữa lòng anh đau
Mẹ ơi, đừng khóc nữa dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm trong tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.


Việt Bắc, tháng 4-1948

Bài thơ này được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (16 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Bình giảng đoạn thơ đầu trong bài thơ Bên kia sông Đuống

Trong vườn thơ ca kháng chiến chống Pháp, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm được sáng tác tháng 4 năm 1948 nổi lên như một bông hoa thắm sắc ngát hương. Bài thơ đã diễn tả được một cách khá thấm thía và cảm động tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương Kinh Bắc nói riêng, quê hương nước Việt nói chung với những tình cảm yêu thương, tự hào về quê hương giàu đẹp, có nền văn hoá nghìn đời đáng yêu và niềm căm giận trước tội ác kẻ thù đã giày xéo quê hương một cách phũ phàng qua những vần thơ như những lời tâm sự của tác giả,

Em ơi buồn làm chi
Sao xót xa như rụng bàn tay
Hoàng Cầm là một thi sĩ đa tài: làm thơ, viết kịch, diễn kịch. Ông thân sinh ra nhà thơ là một nhà nho nghèo đã từng thi trường Nam Định vài ba khoa nhưng không đậu nên phải đi dạy chữ Nho, bốc thuốc ở các nơi trong tỉnh Bắc Ninh. Mẹ Hoàng Cầm vốn là một cô gái xinh đẹp có tài hát dân ca quan họ, quê làng Bửu Xim, huyện Tiên Du, Hoàng Cầm đã từng giới thiệu:
Tời người làng quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng nước trắng
Bên kia sông Đuống ra đời vào tháng 4/1948 và được đăng lần đầu tiên trên báo “Cứu quốc”. Sông Đuống còn gọi là sông Thiên Đức chia tinh Bắc Ninh ra làm 2 phần, Nam (hữu ngạn), Bắc (tả ngạn). Quê hương của Hoàng Cầm ở bên này hữu ngạn sông Đuống. Khi giặc Pháp chiếm đóng vùng đất này thì Hoàng Cầm đang công tác văn nghệ ở Việt Bắc. Hay tin giặc tàn phá quê hương mình, ông xúc động viết một mạch từ 12 giờ đêm đến gần sáng bài thơ nói trên với tâm trạng “niềm căm giận và thuơng cảm sâu sắc như chính nhà thơ đã có lần tâm sự:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngay ở đoạn thơ đầu tiên mở đầu bài thơ gồm 10 câu mở ra một cái nhìn toàn cảnh từ bên này nhìn sang bên kia, toàn cảnh về không gian và thời gian:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Đoạn thơ mở đầu bằng một tiếng gọi trìu mến thân thương để bày tỏ sự vỗ về an ủi của tác giả đối với một người “em” nào đó. Có thể đây là người em tưởng tượng nhưng thường trực trong trái tim tác giả. Phải chăng một cô gái nào đó cùng quê bên kia sông Đuống với Hoàng Cầm? Điều đó làm cho lời thơ của tác giả trở nên trữ tình, thơ mộng hơn và dễ gây được sự đồng cảm sẻ chia đối với người đọc. Và phải chăng đại từ “em” trong câu thơ trên còn là sự phân thân của tác giả để tạo cho hoài niệm, vừa cụ thể vừa phiếm chỉ tạo cảm giác ảo thực rất thi vị?

Thông qua niềm hoài niệm ấy, nhà thơ đã trở về với con sông Đuống trong cuộc sống thanh bình ngày xưa của mình. Dòng sông Đuống vốn êm đềm yên ả, lặng lẽ “trôi” bất tận giữa lòng đất nước từ bao đời nay với cái màu “cát trắng phẳng lì” rất mực bình yên thơ mộng. Nhưng nay trong cái cảm giác mất hay còn, nhà thơ cảm thấy sông Đuống như “lấp lánh” sắc màu hơn, hắt ánh sáng cầu vồng lên quê hương rực rỡ, lộng lẫy:
Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Cái dáng nằm “nghiêng nghiêng” ấy của sông Đuống làm cho nó trở thành một sinh thể xinh xắn, duyên dáng, lãng mạn mà có tâm trạng như khắc khoải lo âu hơn, vì bên kia sông quân giặc đã tràn về. Đó là con sông hiện lên trong tâm tưởng của nhà thơ.

Qua tấm lòng yêu thương đầy tiếc nuối về quê hương Kinh Bắc của tác giả, cảnh bờ bãi ven sông cứ trải ra với một màu xanh trù phú, màu mỡ, bát ngát “Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc”. Tác giả không dùng chữ “xanh”, chữ “biếc” mà dùng từ láy “xanh xanh”, “biêng biếc’ làm cho cái màu xanh thanh bình, sự sống và hy vọng cứ mở ra vô tận, hút tầm mắt trong niềm nhớ tiếc khôn nguôi xen lẫn tự hào của thi nhân về quê hương giàu đẹp. Hình ảnh thơ do đó vừa mang giá trị tạo hình, vừa có ý nghĩa biểu cảm:
Đứng bên ni đồng ngó bèn tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bèn tè đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông
(Ca dao)
Như vậy chỉ bằng mấy câu thơ đơn sơ mà Hoàng Cầm đã tạo dựng lên được một bức tranh quê hương xứng đáng là một bức tranh sơn mài với những đường nét; màu sắc hài hoà tuyệt đẹp. Bức tranh được phác thảo bằng một vài nét chấm phá tài hoa với cái màu cát trắng phẳng lỳ xen lẫn với cái “xanh xanh bãi mía bờ dâu” trải dài nối tiếp với cái “biêng biếc ngô khoai”..

Nhưng giờ đây từ Việt Bắc, từ bên này nhìn về chi còn là một nỗi nhớ tiếc. Cho nên tác giả có cảm giác “sao xót xa như rụng bàn tay”. Điệp từ sao được nhắc lại “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa” như một nốt nhạc láy lại như sâu thêm nỗi day dứt chồng chất, dồn lên nỗi đau đến bàng hoàng quặn thắt khi quê hương thanh bình giàu có bỗng chốc bị chìm trong máu lửa. “Như rụng bàn tay” là một hình ảnh thơ tuyệt hay. Trước hết nó diễn đạt một cảm xúc rất cảm động: giặc chiếm quê hương là như chiếm một phần thân thể, như đứt tay rụng chân của mình vậy. Đúng như Tố Hữu đã viết:
Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây
Sau nữa, qua hình ảnh thơ, Hoàng Cầm dường như đã biến nỗi đau tinh thần thành nỗi đau thể xác như cảm giác được.

Đoạn thơ trên đây của Hoàng Cầm là sự cảm nhận tinh thế, sự thể hiện tài hoa của nhà thơ về sông Đuống – quê hương Kinh Bắc của tác giả, có sức lay động mạnh mẽ đối với trái tim người đọc. Đoạn thơ cùng đã thể hiện được tành cảm yêu nước sâu sắc, mãnh liệt và sự căm giận trước tội ác của giặc Pháp xâm lược của nhà thơ nói riêng và con người Việt Nam nói chung.


(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cảm nhận về thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống

Kinh Bắc là mảnh đất gợi thương, gợi nhớ cho Hoàng Cầm. Đó không chỉ là quê hương nhà thơ sinh ra và gắn bó mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng hồn thơ Hoàng Cầm. Mảnh đất đó như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông. Bài thơ Bên kia sông Đuống thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu tha thiết của Hoàng Cầm về xứ Kinh Bắc và khát khao muốn trở về giải phóng quê hương. Bài thơ ra đời vào một đêm giữa tháng 4 năm 1948 khi nhà thơ đang công tác ở Việt Bắc, nghe tin báo giặc xâm chiếm quê hương. Ông đã từng tâm sự: “Tôi thực sự xao xuyến, tâm tư chồng chất những nhớ thương, tiếc nuối, xót xa, căm giận đối với cảnh, với người quê hương”. Bằng xúc cảm của mình, nhà thơ viết một mạch bài thơ như chỉ sợ không bắt kịp nhịp cảm xúc.

Đúng là không có cảm hứng thì không thành thơ ca. Nhưng đôi khi cảm hứng trong thơ ca tháng hoa tới mức độ “thần hứng”. Những thăng hoa của xúc cảm như tuôn chảy trên đầu ngọn bút. Với Hoàng Cầm đó là sự thăng hoa và đột khởi trong xúc cảm. Điều đó làm nên chất trữ tình đằm thắm lắng sâu, làm cảm động lòng người. Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống rất phù hợp với những gì diễn ra trong tâm tưởng của ông. Nỗi nhớ tiếc, xót xa, căm giận tự nó gợi về trong trí nhớ Hoàng Cầm để hoá thành thơ những gì yêu quý nhất, thân thương nhất của quê hương mình. Vậy nên cả một thế giới Kinh Bắc đã hiện lên trong dòng tâm tưởng của Hoàng Cầm, đó là một thế giới Kinh Bắc với truyền thống văn hoá nghệ thuật lâu đời, với một vẻ đẹp cổ kính.

Hiển hiện lên trong thơ trước hết là bức tranh toàn cảnh sông Đuống. Vẻ đẹp của sông Đuống đã góp phần tạo nên vẻ đẹp của thế giới Kinh Bắc.

Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Có thể coi đây là những vần thơ tràn đầy xúc cảm của Hoàng Cầm khi ghi lại hình ảnh miền quê ngày thanh bình, yên ả, chưa có gót giày quân xâm lược. Chỉ bằng vài nét chấm phá nhà thơ đã làm hiển hiện lên trang thơ một bức tranh đẹp đẽ, sống động. Câu thơ “Ngày xưa cát trắng phẳng lì” mang đầy hoài niệm bâng khuâng. Nó như một câu thơ bản lề. Thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ. Người đọc cứ ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới của miền cổ tích huyền diệu. Con sông Đuống ngày xưa gắn liền với hình ảnh “cát trắng phẳng lì”. Nhà thơ chưa miêu tả dòng nước mà đặc tả bến sông với “cát trắng”. Màu trắng không chỉ là màu của sự yên bình mà còn là màu hoài niệm về một dòng sông tuổi thơ. Chỉ bằng một hình ảnh ấy thôi, nhà thơ đã tạo nên một lời thơ giàu xúc cảm, đã vẽ lên một cuộc sống bình yên của “ngày xưa”.

Sông Đuống còn được nhìn, được cảm nhận trong trạng thái động:
Sông Đuống trôi đi
Người đọc cảm nhận được dòng chảy của con sông. Sự trôi chảy của dòng sông giống như sự trôi chảy của thời gian lịch sử:
Một dòng lấp lánh
Âm hưởng câu thơ có cái da diết, có cái sâu lắng như đưa người đọc về một miền kí ức trong trẻo, về một dòng sông đã gắn bó máu thịt với nhà thơ. Dòng sông quê hương suốt những năm tháng nhà thơ xa nhà đi kháng chiến vẫn cháy mãi không thôi. Dòng sông ấy chính là dòng xúc cảm của nhà thơ. Từ láy “lấp lánh” là từ láy tượng hình vừa miêu tả màu sắc lại vừa miêu tả ánh sáng, vừa cho người đọc hình dung những gợn sóng lằn tăn lấp lánh dưới ánh nồng tươi tắn. Nó như một chuỗi trang sức đẹp đẽ tô điểm thêm cho dòng sông khiến dòng sông trở nên lung linh, rực rỡ, mĩ lệ, trở thành một dòng ánh sáng.

Nếu như những câu thơ trước là một dòng sông Đuống có thực thì đến hai câu thơ này hình ảnh thơ bỗng thoắt trở đầy mộng tưởng:
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Câu thơ thật hay! Nó khắc tạc hình ảnh dòng sông Đuống trong cả chiều kích không gian và thời gian. Thơ vốn chỉ cất lên khi cảm xúc trong ta là thật. Vậy nên hình ảnh dòng sông đẹp đẽ ấy là kết tinh độc đáo cảm xúc của nhà thơ. Từ láy “nghiêng nghiêng” cũng là từ láy tạo hình. Người đọc dường như cảm nhận được cả dáng vóc của dòng sông. Đó là dáng vẻ mềm mại, uốn lượn, nhịp nhàng, chứa nhiều nội tâm và rất gợi cảm. Phải chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng hình ảnh dòng sông Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm được miêu tả giống như hình ảnh một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, âu lo. Không hiểu trong những giây phút thăng hoa ấy nhà thơ đã chọn điểm nhìn như thế nào mà phát hiện ra dáng nằm của dòng sông Đuống. Câu thơ chỉ toàn thanh bằng khiến lời thơ dàn trải, đầy dư ba. Chính Hoàng Cầm đã từng tâm sự “Khi dòng chảy nghiêng nghiêng, tôi muốn nói tới một con sông Đương đầy xáo động, trăn trở, vật vã thao thức”.

Hình ảnh sông Đuống còn được nhân hoá. Nó như một thực thể có hồn. Dòng sông giờ đã trở thành chứng nhân của lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Đó còn là dòng sông đầy thơ mộng, mang hơi thở chiến tranh khác với vẻ đẹp dòng sông thời thơ ấu, một dòng sông tâm hồn của nhà thơ. Nhà thư như ngụp lặn vật vã trong chính dòng sông tâm hồn của mình, mang nỗi đau mất quê hương.

Bức tranh Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp trù phú tốt tươi:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc.
Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam. Bãi mía, bờ dâu ngô khoai... đều là những hình ảnh hết sức bình dị, thân thuộc, gần gũi. Trước tiên người đọc cảm nhận được một không gian tràn ngập màu xanh tươi tốt. Những từ láy “xanh xanh, biêng biếc” được sử đụng khá tinh tế khiến cảnh vật trong thơ như ánh lên một sự sống. Bức tranh như được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Dù đã cách xa quê hương như trong tưởng tượng của nhà thơ quê hương vẫn hiện lên rõ nét, gần gũi. Quê hương thanh bình yên ả nơi Kinh Bắc đã trở thành một phần tâm hồn, một phần máu thịt của nhà thơ.

Giờ đây quê hương đang bị giặc xâm chiếm, bị chia cắt làm hai miền. Bên kia sông Đuống đã trở thành vùng đất của giặc chiếm đóng, đang bị huỷ hoại, tàn phá dưới gót giày quân xâm lược. Trước hết hiển hiện trên trang thơ là một thế giới Kinh Bắc với truyền thống văn hoá nghệ thuật lâu đời:
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đống Hồ gà Lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Ba câu thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất của bức tranh làng quê Kinh Bắc. Bức tranh ấy có màu sắc, có ánh sáng, có hương vị. Tác giả chọn những nét vẽ tiêu biểu nhất của làng quê Việt Nam. Đó là sự giàu có, trù phú, mang đậm nền văn minh lúa nước. Đã biết bao lâu nay hình ảnh đồng quê đã đi vào trong thơ ca. Hình ảnh thơ tuy bình dị quen thuộc mà gợi dậy biết bao ám ảnh với người đọc. Viết về Kinh Bắc nhà thơ còn giới thiệu nét đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc. Đó là tranh Đông Hồ – một dòng tranh kết tinh, nghệ thuật của dân gian như tranh gà, tranh lợn, tranh đám cưới chuột. Nét vẽ tươi tắn trong sáng, hóm hỉnh đầy sức sống khi miêu tả đời sống sinh hoạt của nhân dân.

“Màu dân tộc” là hình ảnh thơ đa nghĩa. Nó vừa là màu đất đai của quê hương, vừa là màu của chất liệu làm tranh. Màu đen từ than rơm rạ, màu hồng đỏ từ hoa hiên, màu vàng từ nghệ. Đồng thời nó còn là màu sắc của dân tộc, mang một bản sắc riêng.

Hai chữ “sáng bừng” được sử dụng khá độc đáo. Nó được sử dụng như một động từ mạnh không, những biểu hiện ánh sáng mà còn thể hiện sức sống diệu kì của dân tộc. Nó khiến thế giới trong tranh như sinh động hẳn lên, rạng rỡ hẳn lên, như đang cựa quậy, đang vận động theo nhịp cuộc đời. Những câu thơ làm sống lại một thế giới Kinh Bắc vừa giàu đẹp, trù phú, vừa có một nền văn hoá truyền thống lâu đời. Câu thơ thấm đẫm niềm tự hào của con người Kinh Bắc về quê hương, đất nước, dân tộc.

Quê hương Kinh Bắc không chỉ trù phú, tốt tươi, giàu truyền thống văn hoá mà còn mang một vẻ đẹp cổ kính với những phong tục tập quán, những đền chùa, những lễ hội vào dịp đầu xuân.
Ai về Bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Hồi ức của nhà thơ hiện về cùng các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài. Những địa danh ấy được gợi nhắc thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Các câu thơ chi địa danh kết hợp với những từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian “trên, trong, giữa” khiến không gian càng rộng lớn mênh mông, không gian của sự thanh bình. Những địa danh ấy chi có duy nhất ở Kinh Bắc, nó từ lâu đã đi vào trong ca dao, dân ca, vào lòng người dân Kinh Bắc. Mỗi địa danh lại gắn liền với một lễ hội. Chỉ bằng mấy câu thơ liệt kê ngắn gọn nhà thơ đã làm sống dậy một quá khứ, một bức tranh đẹp đẽ, tươi vui mang sắc thái cổ kính của riêng đất Kinh Bắc.

Âm thanh của tiếng chùa văng vẳng cũng góp phần làm nên nét cổ kính trong bức tranh Kinh Bắc. Nó như một thứ âm thanh điểm nhịp cho cuộc sống thanh bình, yên ả nơi đây.

Hiển hiện trên trang thơ còn là hình ảnh của tấm the đen. Tấm the đen gió về may áo – đây là một trong những phong tục đẹp đẽ của người Kinh Bắc.

Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà còn là hành động giá thường gửi nhớ của con người. Hình ảnh chiếc áo the đen xuất hiện trong lời nhắn gửi ân tình tha thiết như đồng vọng từ quá khứ đến hiện tại trong ước nguyện về mộng bình yên. Chỉ qua một hình ảnh thơ ấy thôi mà bao nhiêu vẻ đẹp của con người Kinh Bắc, bao nhiêu tinh hoa của văn hoá Kinh Bắc được gợi lên. Đó là hình ảnh những liền anh, liền chị hát quan họ giao duyên.

Người đọc như nhận ra nỗi niềm hoài niệm của nhà thơ, niềm trân trọng và yêu mến sâu sắc của nhà thơ đối với những nét đẹp đẽ của dân tộc.

Làm nên vẻ đẹp của bức tranh Kinh Bắc thì không thể thiếu bóng dáng hình ảnh những con người Kinh Bắc. Họ được phác hoạ qua những câu thơ cụ thể.
Những nàng môi cắn chi quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Chi băng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng lên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc. Họ đều ngời rạng một vẻ đẹp truyền thống. Họ là những thế hệ con người, tạo nên nét vẽ sinh động trong dịp xuân tết. Họ như bước ra từ thế giới của ca dao, của truyện cổ tích. Những thiếu nữ có vẻ đẹp duyên dáng, tháo vát, đảm đang. Những cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Những con người Kinh Bắc hiện lên trong nét đẹp hiền hoà, thân thuộc rất đỗi giản dị. Họ rất hiền lành, đáng yêu. Họ làm nên cái hồn của Kinh Bắc.

Hình ảnh những con người Kinh Bắc gắn liền với những sinh hoạt làm ăn buôn bán cũng góp phần tạo nên nét đặc sắc cho một miền quê văn hiến.
Ai về Bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chi người dăng tơ nghẽn lối...
Trong hồi tưởng của nhà thơ, kỉ niệm những con người Kinh Bắc và về nồi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Nhà thơ đã dùng những câu thơ hay nhất, vần thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ.
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng...
Hình ảnh “khuôn mặt búp sen” gợi tả khuôn mặt của người con gái vừa đoan trang, phúc hậu, vừa yểu điệu dịu dàng. Câu thơ gợi nhiều hơn tả, có nhiều liên tưởng tưởng tượng. Ta hình dung ra một người con gái Kinh Bắc có khuôn mặt xinh xắn, có làn da phớt hồng, chiếc khăn mỏ quạ chít trên đầu ôm lấy khuôn mặt xinh đẹp ấy. Bức chân dung người con gái Kinh Bắc hiện lên rõ nét trong vẻ đẹp ý nhị, kín đáo, đẹp đẽ. Ca dao xưa đã từng có những vần thơ như thế.
Cô tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Hình ảnh “những cô hàng xén răng đen” lại là một nét vẽ truyền thống của người con gái Kinh Bắc, vẻ đẹp gắn liền với phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc. Cái hay nhất trong những câu thơ là biện pháp nghệ thuật so sánh giữa nụ cười của người con gái Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu.

Nắng mùa thu là thứ nắng dịu dàng, tươi tắn, không phải là cái nắng gay gắt, nóng bỏng của mùa hè, cũng không phải cái nắng yếu ớt, ảm đạm của mùa đông. Nụ cười rạng rỡ tươi sáng như lan toả ra không gian chung quanh. Dường như có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời.

Ngòi bút nhà thơ chuyển sang miêu tả một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập. Một loạt những địa danh: chợ Hồ, chợ Sủi, bãi Trầm Chi, Đồng Tỉnh, Huê cầu tạo ấn tượng về cảnh làm ăn buôn bán, về những làng nghề truyền thống.
Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm răng
Bằng xúc cảm thăng hoa, hiển hiện lên trang thơ là một thế giới Kinh Bắc đẹp đẽ trong quá khứ qua hồi tưởng của nhà thơ. Đó là một thế giới Kinh Bắc vẹn nguyên sống động, trù phú, với vẻ đẹp cổ kính, với những truyền thống văn hoá nghệ thuật lâu đời. Đó là một thế giới Kinh Bắc điển hình trong thơ Hoàng Cầm.

Đối lập với thế giới Kinh Bắc đẹp đẽ trong quá khứ là một Kinh Bắc của một ngày hôm nay. Một vùng quê bị chia cắt, bị giày xéo dưới gót giày quân xâm lược. Toàn bài thơ đã là kết cấu đối lập xưa và nay, hiện thực và, quá khứ. Cụm từ “Bên kia sông Đuống” được lặp lại như một điệp khúc, đã tạo ra được một điểm nhấn cho cảm xúc. Nhà thơ dường như muốn đánh thức người đọc về một Kinh Bắc bị chia cắt, gợi dậy những hoài niệm, nhớ thương.

Với Hoàng Cầm, Kinh Bắc là như thế đấy. Đó là một nơi mà sự sống phải bao gồm, nhất thiết phải bao gồm hồn quê hay quê hương ngày nay trong vết thương chiến tranh vẫn là những hình ảnh của làng truyền thống, văn hoá nghệ thuật lâu đời. Người đọc nhận ra cả niềm đau xót, niềm yêu quê hương đất nước của nhà thơ. Bởi thế bài thơ khép lại trong ước vọng hoà bình để thế giới Kinh Bắc với truyền thống văn hoá, nghệ thuật lâu đời, với một vẻ đẹp cổ kính vẫn giữ trọn vẻ đẹp nguyên vẹn như xưa.

Bên kia sông Đuống tuy chỉ viết về một mảnh đất, một miền quê cụ thể ở bên kia sông Đuống với những gì đẹp nhất, tiêu biểu nhất nhưng đã gặp được sự giao cảm kì diệu với người đọc. Quê hương Kinh Bắc là hình ảnh tiêu biểu của làng quê Việt Nam vậy nên nó đã khơi dậy trong lòng người đọc những hình ảnh về quê hương bản xứ mình. Hơn nữa quê hương lại trong cảnh ngộ bị giặc xâm chiếm do vậy nỗi đau của nhà thơ đã hoà quyện, đã chạm vào nỗi đau của mọi người; nhà thơ như hoà chung nhịp đập trái tim với độc giả Hoàng Cầm thật tài ba, có công lớn lưu giữ trong thơ một miền quê nổi tiếng ngoài đời; một xứ Kinh Bắc.


(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm chính là suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của ông. Mảnh đất Kinh Bắc đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, nó giống như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông. Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người Kinh Bắc – một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống văn hoá lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ Bên kia sông Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ.

Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hoá, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá rõ ngay từ mở đầu bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở “Bên này” nhìn về bên kia sông Đuống:

Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về. Hai câu thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải trong cảm xúc. Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng khuâng. Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay cũng chính là giãi bày lòng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình, đó chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc của tác giả. Sông Đuống là điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng Cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái cũng hướng về dòng sông đầy kỉ niệm ấy.

Rõ ràng hình ảnh sông Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê hương Kinh Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh toàn cảnh của dòng sông này:
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
“Ngày xưa cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm cho thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới cổ tích huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh Bắc thanh bình phẳng lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì” – chỉ cần gợi ra một chi tiết mà giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. Ở đây, hình ảnh sông Đuống được miêu tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như một chinh thể đẹp mà ở góc nhìn nào người ta cũng cảm nhận được và kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn được nhìn trong trạng thái động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc cảm nhận dòng chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính là sự trôi chảy của thời gian lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dòng sông. Trong cái lấp lánh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dòng sông đã trở thành dòng ánh sáng, không những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá là cho dòng sông có dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”, sông Đuống giống như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc. Cái hay của câu thơ là ở từ “nghiêng nghiêng” – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc dáng của dòng sông mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn, phải chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sông Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp đó, hình ảnh một chốn quê thanh bình, một không gian yên ả đã hiện ra:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là ngô khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt Nam. Hoàng Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm yêu mến tha thiết. Bao trùm lên toàn bộ không gian là một mầu xanh nhưng với những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”, “biêng biếc”. Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương, mê mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo như vỡ oà nước mắt:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:
Ai về Bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thơi
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Ở đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian là “trên”, “trong”, “giữa”. Nhà thơ Hoàng Cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của “mộng bình yên” đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác hoạ bằng những câu thơ cụ thể:
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu
Chỉ bằng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chữ “Có nhớ” đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh “khuôn mặt búp sen” gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh “cô hàng xén ràng đen”, đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng mùa thu chứ không phải cái nắng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng Cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy “còm cõi” đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ “dăm”, “vài” là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ “hoen” được sử dụng rất hay, “hoen” không chỉ là sương thấm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác của kẻ thù:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Tác giả gọi kẻ thù là “lũ quỷ mắt xanh” – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy “trừng trợn” không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm của kẻ thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ “chợt” chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao “khua” “đạp”, “xì xồ”, “tan”, “gầy teo” diễn tả những hành động dã man liên tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vét máu loang chiều mùa đông
Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, loang được sử dụng rất đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chút từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa dông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gọi tả sực khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay ráng chiều nhuộm đỏ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quân xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đẫm nỗi khóc thương nhỏ lệ.

Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp tinh tuý của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể có những mẫn cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.


(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
tửu tận tình do tại
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Giới thiệu về nhà thơ Hoàng Cầm và bài thơ “Bên kia sông Đuống”

Nhà thơ Hoàng Cầm có tên khai sinh là Bùi Tằng Việt, quê ở thôn Lạc Thổ, xà Sơn Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (bên kia sông Đuống). Ông sinh năm 1922 trong một gia đình nhà Nho nghèo. Ông được sống trong một bầu không khí văn hoá rất đặc biệt. Quê hương ông là một vùng đất có truyền thống văn hoá lâu đời, là cái nôi văn hoá Việt. Được lớn lên dưới những mái chùa cổ kính, trong âm điệu ngọt ngào của những làn điệu dân ca quan họ. Bắt đầu sáng tác từ năm 1936 với nhiều thể loại như thơ, kịch... Ông tham gia Thanh niên cứu quốc từ 1944. Sau đó hãng hái tham gia các hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến. Bạn đọc biết đến tên tuổi của ông với một số vở kịch thơ và tập thơ thành công như: Kiều Loan (kịch thơ), Hận Nam Quan (kịch thơ), Mưa Thuận Thành (tập thơ), Về Kinh Bắc (tập thơ)...

Bên kia sông Đuống ra đời năm 1948, là bài thơ xuất sắc nhất của Hoàng Cầm. Bài thơ là cảm xúc chân thành của nhà thơ trong một hoàn cảnh đặc biệt: Một đêm giữa tháng Tư năm 1948, nhà thơ đang công tác ở Việt Bắc thì nghe tin địch bắn phá quê hương đau đớn và xúc động, ngay đêm ấy, ông đã viết bài thơ này. Bài thơ là cảm xúc của một khoảnh khắc nhưng là kết quả của cả một nền văn hoá, một tình yêu tha thiết và sâu nặng với quê hương.

Bài thơ thể hiện hai trạng thái cảm xúc: đau thương và tự hào. Tự hào về truyền thống văn hoá lâu đời và vẻ đẹp trù phú của quê hương, quê hương có “lúa nếp thơm nồng”, “tranh Đông Hồ gà lợn...”, với những lễ hội, những chùa chiền lăng tẩm. Qua hồi ức của nhà thơ, một miền Kinh Bắc cổ kính và tươi đẹp hiện lên thật đáng trân trọng. Nhưng chính điều đó làm nhân lên nỗi đau. Quê hương ấy đang bị giặc tàn phá, đang quằn quại dưới gót giày xâm lăng.


(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
tửu tận tình do tại
23.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Sửa nội dung

Những lỗi mình thấy sai, Thi viện kiểm tra lại nhé:
Câu 2 đoạn 1: "Anh đưa em về bên kia sông Đuống" chứ không phải "Anh đưa em về sông Đuống".
Câu 5 đoạn 2: "ngô khoai biêng biếc"
Câu 4 đoạn 8: "líu ríu"

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Lời bình bài thơ “Bên kia sông Đuống” của nhà văn Anh Ngọc

Cũng tựa như Trường ca sông Lô của Văn Cao và Du kích sông Thao của Đỗ Nhuận trong âm nhạc, bài thơ này của thi sĩ Hoàng Cầm có thể coi là một bản trường ca trong thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Quy mô bài thơ khá lớn, bao hàm đủ cả quá khứ, hiện tại, tương lai của một miền đất vốn là chiếc nôi văn hoá của xứ Bắc lại đang chìm ngập trong cơn binh lửa, với nhiều cảnh đời, tình người, nhiều trạng huống cảm xúc buồn, vui, yêu ghét, nhớ tiếc, hy vọng...như cả một hoạt cảnh thơ hoàn chỉnh. Để chở được một dung lượng khá đồ sộ như vậy mà cấu trúc không bị manh mún, chất lượng không bị sồi sụt (hoặc có sồi sụt chút ít không đáng kể), mà ngược lại người viết lại có thể cuốn người đọc, người nghe theo một dòng chảy cuồn cuộn từ câu thứ nhất đến câu cuối cùng như một con sông Đuống bằng thơ ấy, rốt cuộc là nhờ vào sức mạnh của cái gì vậy? Về ý tưởng ư? - Thực ra bài thơ có tung ra được ý tưởng gì độc đáo, mới mẻ lắm đâu. Về cốt truyện ư? - Càng không có gì đáng gọi là ly kỳ, hấp dẫn, nếu không nói là sơ lược. Ngay cả về ngôn từ, ngoài những sáng tạo thành công lắm khi đến độ xuất thần mà ta sẽ nói tới sau, không thể phủ nhận là trong bài vẫn còn không ít lời lẽ kiểu cách và sáo. Rốt cuộc, sức mạnh to lớn của bài thơ dài này vẫn nằm trong nguyên lý muôn đời của thơ ca tức là dòng cảm xúc mạnh mẽ, dào dạt vô cùng, thứ cảm xúc dường như đã được tích tụ từ rất lâu trong lòng người, bất chợt được một bàn tay của ngoại cảnh bật tung cánh cửa, khiến nó tuôn ra ào ạt, đủ sức cuốn phăng đi mọi con đê khuôn sáo, mọi toan tính chừng mực và tỉnh táo, để làm tràn ra trên mặt giấy những chữ, những dòng mà sau này chính nhà thơ có lần thú nhận là ông đã viết chúng ra như trong một cơn mê sảng, như thể có ai đó đọc vào tai cho mà ghi lại vậy! Thần bí hoá công việc làm thơ hẳn có người khó chịu, nhưng tình trạng thăng hoa của cảm xúc, sự khơi đúng nguồn mạch trong khai thác cảm xúc và cả ý tưởng nữa trong công việc sáng tạo nghệ thuật, dẫu rất hiếm và quý, nhưng cũng là chuyện xưa như trái đất. Và thi sĩ Hoàng Cầm của chúng ta, một nhà thơ vốn đã nổi danh đa tình, đa cảm, lại sành sỏi trong công việc thao túng chữ nghĩa, trong cái đêm Việt Bắc se lạnh, đang nằm nhớ thương gia đình và quê hương đến cháy lòng, lại được nghe những người du kích từ quê nhà vừa bị giặc chiếm chạy lên chiến khu kể lại nguồn cơn thảm cảnh thì việc chỉ ngay trong một đêm ông có thể hạ bút làm xong bài thơ tràng thiên ngót một trăm năm mươi câu này là điều không có gì khó hiểu. Công việc sáng tạo nghệ thuật vẫn thường như vậy, có khi cả tháng cả năm không vạch nổi một chữ, nhưng có khi mạch cảm xúc bất chợt tuôn ra như thác vỡ bờ, ấy là những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời của người viết.Thậm chí, ta cũng không ngại để “nói vuốt đuôi” rằng, với mạch tình cảm thể hiện ra trong bài thơ này thì sự thể còn không thể nào khác được nữa kia! Liệu bài thơ còn giữ được cái mạch liền như “áo nhà trời không có đường khâu” này hay chăng, nếu nó được làm ra một cách ì ạch, ngắc ngứ, đánh vật hết ngày này sang ngày khác? Dĩ nhiên, làm có thể nhanh, sửa sang có thể dềnh dàng, nhưng liệu có sự khôn ngoan, kỹ tính nào lại đẻ ra nổi một câu thơ kỳ lạ vào bậc nhất trong thơ Việt từ cổ chí kim như câu thơ tả sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” được chăng?

Như vậy là ta đã động đến cái đặc thù của bài thơ này: tính liền mạch - nhờ cảm xúc mạnh mà tạo nên liền mạch, lại nhờ có mạch mà tạo ra được nhiều ưu thế khác.

Bài thơ rõ ràng mang những cảm xúc có tính xã hội và thời sự, nghĩa là nó thực sự là thơ công dân, thơ phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng điều then chốt ở đây là cảm xúc xã hội lại trùng lên cảm xúc cá nhân, những buồn vui, yêu ghét của cộng đồng lúc này cũng chính là tâm trạng riêng tư của người viết - chính sự hoà hợp ấy đã làm nên một sự cộng hưởng trong cảm xúc và người làm thơ có thể tung hoành ngòi bút để rồi bật lên những lời không còn phân biệt được đâu là chung đâu là riêng, tất cả đều tự nhiên nhi nhiên:

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Một tiếng kêu tự đáy lòng dễ thường chỉ gặp ở trong thơ tình, mà là thơ tình thứ thiệt, thơ tình chân chất của người trong cuộc, chứ không phải thứ thơ tình mượn danh tình yêu để rao giảng việc khác. Có sự vào bài ngọt lịm như thế, sự vào bài giúp cho cả bài sẽ “đầu đi đuôi lọt” như vậy là nhờ ngay từ đầu tác giả chắc không nghĩ mình làm thơ để ban phát một điều gì, thậm chí phục vụ một mục đích gì. Ông viết như một sự giải toả nỗi lòng đang dào dạt những nhớ thương, buồn đau khôn xiết. Có thể rồi dần dà ông sẽ nghĩ tới những điều ấy, nghĩ tới bạn đọc, nhưng đó chắc chắn là chuyện đến sau, còn vào phút ấy, ông phải viết ra ngay những lời như đã ngấp nghé nơi cổ họng, như một tiếng kêu, một tiếng thét bật ra từ sâu thẳm trái tim - thế thôi. Tôi nghĩ, nếu sau này nhà thơ có kể lại rằng ông đã viết những lời này như sự mách bảo của một thế lực siêu nhân thì thế lực bí mật đó chẳng có gì khác hơn là những cảm xúc, những ý tưởng đã nung nấu đến thành ra máu thịt ở trong ông tự những bao giờ khiến cho chính ông cũng không ngờ tới. Sự thể này trên đời vẫn có lúc xẩy ra, mà nhà thơ của chúng ta không phải là trường hợp hy hữu. Nhất thiết không có gì thần bí theo nghĩa duy tâm ở đây, mà chỉ có bản chất của công việc sáng tạo nghệ thuật, cái công việc “cướp quyền Tạo Hoá” rắc đậu thành binh, dám cả gan tạo dựng cả trời đất và hồn người trên trang giấy thì vốn tự thân đã là như vậy. Phải thấu hiểu đến tận cùng cái phút giây “thơ về giáng bút” như chữ dùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương khi bàn tay của người viết tựa như miệng của cô đồng - nếu như có những cô đồng đích thực - chỉ biết chạy theo những “mệnh lệnh” bí ẩn từ đâu đó trong cõi vô minh mà ở đây ta có thể hiểu là tiếng nói sâu thẳm của những cảm xúc, những nghiền ngẫm suy tư đã tích tụ từ lâu lắm trong bộ nhớ của con người, lâu và chín đến nỗi ta không còn nhớ đến nó nữa, đến nỗi khi nó vang lên bên tai thì ta cứ nghĩ là nó vọng về từ vô thức! Phải, có hiểu như vậy thì ngõ hầu ta mới không hoang mang khi đứng trước một câu thơ như ta vừa nói tới ở trên:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ.
Có lẽ từ thuở bài thơ được phổ biến đến nay, câu thơ này luôn luôn và mãi mãi là một câu đố trong lòng công chúng yêu thơ. Tôi biết, có vị giáo sư đáng kính đã từng đạp xe dọc sông Đuống hàng chục, hàng chục cây số để tìm lời giải đáp cho câu hỏi ấy. Nghe đâu như ông đã tìm ra, nhưng là để giải đáp cho ông thôi, còn những người khác, họ có chấp nhận hay không thì chưa chắc. Thực ra, tất cả chỉ ở hai chữ “nghiêng nghiêng” kỳ quái! Giá như nó chỉ khiến ta thấy nó cầu kỳ, thậm chí kỳ cục thì chẳng có gì mà nói, người ta hoàn toàn có thể viết những chữ kỳ cục hơn thế nhiều, nhưng hoặc chỉ để mua cười cho thiên hạ, hoặc sẽ chẳng ma nào để ý tới, điều phiền toái ở đây là dòng thơ kỳ lạ này lại ngay lập tức bám riết lấy hồn ta, trí ta, nó lay động, nó gợi mở, nó khiến ta cứ phải hình dung, phải tưởng tượng... thế nghĩa là nó có cái lý bên trong nào đó, có cái tình u ẩn nào đó - và với một câu thơ có sức ám ảnh dai dẳng đến như thế, thì ta chỉ biết nói là nó HAY, quá hay, vậy thôi, hay đến nỗi nếu được bầu một câu thơ hay nhất trong nền thơ kháng chiến, tôi xin được bỏ phiếu cho câu này. Bỏ phiếu, không do dự, nhưng cũng không... giải thích! Là vì thú thực, tôi cũng như mọi người, đã hơn một lần cố công giải thích cho cái hay của câu thơ, nhưng riêng tôi tự thấy nên từ bỏ ý định vô vọng này đi, bởi đơn giản càng mổ xẻ, phân tích càng thấy bất lực, thậm chí còn phơi hết sự dung tục của mình ra. Xin cứ để yên cho câu thơ được nằm mờ ảo trong vòng hào quang của Thần Thánh, mà với Thánh Thần thì “kính nhi viễn chi” xem ra vẫn là thái độ khôn ngoan hơn cả.

Tôi đã quá dài lời vì một câu thơ, nhưng sự thể không thể khác được. Điều đáng khâm phục là ngoài câu thơ thiên phú trên đây, bài thơ vẫn còn những câu, những chữ tài tình đến mức xuất thần. Chẳng hạn, nói nỗi đau trong lòng mà như cảm thấy được đến tận ngoài da thịt: “sao xót xa như rụng bàn tay”! Sao lại “rụng bàn tay” mà không phải cái gì khác? Tả bọn giặc xâm lược thì:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Còn đây là cái cách mượn cảnh trời tả hồn người tinh vi và kinh điển:
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Có vẻ như ta đang nghe Nguyễn Du với “chim hôm thoi thót về rừng” báo hiệu một tai hoạ sắp ập xuống với nàng Kiều. Và đến câu thơ sau đây thì không có gì khác hơn là tài dùng chữ siêu việt:
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Hai chữ “thấp thoáng” đã nâng vị thế con người lên một tầm nhìn rất cao và đầy nhân bản. Xin kể một câu chuyện nhỏ: Có một lần, sau một cuộc đọc thơ ở Thư viện Hà Nội, mấy anh em làm thơ của nhiều thế hệ quây quần trò chuyện, nhà thơ Phùng Quán, ý muốn thử tài các động nghiệp theo cách của ông, liền làm một cuộc trắc nghiệm bằng cách đề nghị mỗi nhà thơ đọc một câu thơ của mình mà có thể gói trọn thần thái của cả đời người ấy trong đó (xin tiết lộ là đã có không ít nhà thơ rất lúng túng khi phải tham gia cuộc trắc nghiệm này). Đến lượt nhà thơ Hoàng Cầm thì chính Phùng Quán xin được nói hộ “ông anh tôi đây”, và Phùng Quán đã chọn câu thơ trên một cách thích thú và tâm đắc. May mắn được có mặt ở đấy, người viết bài này cũng phải công nhận cái sự chọn của ông thi sĩ họ Phùng là rất chính xác. Kể câu chuyện này ở đây là để thay cho một lời bình luận, vì nó đã nói lên rất nhiều.

Mặc dù không dám mạo hiểm cắt nghĩa những gì mình tự thấy chưa mấy tự tin vào những hiểu biết vốn còn nông cạn, nhưng dẫu sao điều gì cảm được thì cứ xin nói ra, mà một trong những điều ấy là: chính mạch thơ - nhờ được bảo lãnh bởi mạch cảm xúc - đã khơi nguồn cho sức băng tới của bài thơ, và chính trong sự vận động tự thân của thơ như một dòng suối chảy xiết đã làm cho những hạt vàng lấp lánh của ngôn từ vốn bị vùi sâu dưới đất đã bật lên, đã có dịp phơi mình dưới ánh sáng mặt trời. Sức cuốn ấy của tình cảm cũng tạo nên một dòng âm nhạc chảy xiết, vừa phong phú vừa linh hoạt, với hầu như đủ hết các thể thơ từ tự do, lục bát, đến cả song thất... dài ngắn, mạnh nhẹ, cao thấp, nhanh chậm đếu nương theo nhu cầu tình cảm của con người mà ngân lên. Ta dễ dàng nhận ra sức mạnh ấy của nhạc tính trong thơ của thi sĩ Hoàng Cầm khi đọc vào bất cứ đoạn nào trong bài thơ, chẳng hạn:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu...
Và cứ thế cho đến những câu thơ kết đẹp như một dòng âm thanh lanh lảnh vút lên giữa trời xanh:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Thiết nghĩ, cùng với giá trị của những từ ngữ, hình ảnh xuất thần, về mặt nhạc tính, Bên kia sông Đuống đã là cả một dàn giao hưởng của rất nhiều giai điệu, tiết tấu làm say đắm hồn người và đủ để biểu dương vẻ đẹp không gì sánh nổi của tiếng Việt khi trở thành vũ khí lợi hại của thơ ca.

Để kết thúc bài viết đã khá dài, tôi thấy vẫn còn một điều phải nói nốt về bài thơ này: ấy là, cuộc sống đã có lý khi giành một bài thơ đẹp và hoành tráng đến thế để ca ngợi một vùng đất như xứ Kinh Bắc, mảnh đất có truyền thống văn hoá sâu thẳm, xứ sở của những hội hè, đình đám, những chùa chiền, miếu mạo, của nguyên phi Ỷ Lan, của bà chúa Chè Đặng Thị Huệ, của những liền anh, liền chị, của “tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong / màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” v.v và v.v... Chính là tất cả những cảnh, những người, những tình, những nghĩa đã chung đúc tinh anh lại, gửi vào trong ngọn bút tài hoa của một người con xứ sở: Thi sĩ Hoàng Cầm.

Chúng ta chỉ còn biết cám ơn tất cả.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Trang trong tổng số 2 trang (16 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]