Hồi septembre 1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một chuyện ngắn của ông Thanh Châu: Hoa ti gôn. Ít ngày sau toà báo nhận được một bài thơ nhan đề Bài thơ thứ nhất, rồi lại nhận được bài nữa: Hai sắc hoa ti gôn. Hai bài đều ký T. T. Kh. và đều một nét chữ run run. Từ đấy toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T. T. Kh. ở đâu.
Nhưng sau khi hai bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao. Có đến mấy người nhất quyết T. T. Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho hai bài ấy là những áng thơ kiệt tác.
Nói thế đã đành quá lời, nhưng trong hai bài ấy cũng có những câu thơ xứng với vẻ lâm ly của câu chuyện. Cô bé T. T. Kh. yêu. Người yêu của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á. Cô kể: những buổi chiều thu, đứng dưới dàn hoa ti gôn,
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,Cô bé ngây thơ không tin. Ai ngờ lời nói văn hoa kia bỗng thành sự thực. Chàng đi...
Thở dài trong lúc thấy tôi vui;
Bảo rằng: “Hoa giống như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!“
Ở lại vườn Thanh có một mình,Ngày ấy buồn nhất trong đời nàng:
Tôi yêu gió lạnh lúc tàn canh,
Yêu trăng lạnh lẽo rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa, lúc đi theo
Những tà áo đỏ sang nhà khác!
- Gió hỡi, làm sao lạnh rất nhiều?
Người xa xăm quá - Tôi buồn lắmTừ đó mùa thu qua, rồi mùa thu qua, nàng vẫn luôn luôn tưởng nhớ, nhưng tin buồn chàng nào có hay; cho nên nàng tự hỏi:
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,Một nỗi đau đớn trần truồng, không ẩn sau liễu Chương Đài như nỗi đau đớn của nàng Kiều ngày trước.
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Cho tôi ép nốt dòng dư lệBốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết “con người vườn Thanh” bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?
Nhỏ xuống thành thơ, khóc chút duyên!
Truyện Kiều: Khi xưa hỏi liễu Chương đài, |