和毛伯溫萍詩

錦鱗密密不容鍼,
帶葉連根豈計深。
常與白雲爭水面,
肯教紅日墜波心?
千重浪打誠難破,
萬陣風吹永不沉。
多少魚龍藏這裏,
太公無計下鉤尋。

 

Hoạ Mao Bá Ôn bình thi

Cẩm lân mật mật bất dung châm,
Đái diệp liên căn khởi kế thâm.
Thường dữ bạch vân tranh thuỷ diện,
Khảng giao hồng nhật truỵ ba tâm.
Thiên trùng lãng đả thành nan phá,
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm.
Đa thiểu ngư long tàng giá lý,
Thái Công vô kế hạ câu tầm.

 

Dịch nghĩa

Dầy như vẩy gấm, mũi kim đừng hòng xỏ
Mang áo giáp liền với rễ, chẳng cần phải xâu
Đường đường tranh mặt nước với mây trắng
Đâu để mặt trời rọi xuống sóng nước sâu
Dù cho ngàn trùng sóng vỗ, khó mà phá nổi
Dù muôn trận bão dông cũng không chìm
Không ít cá, rồng núp ở dưới ấy
Lưỡi câu của Lã Vọng biết đâu mà tìm


Sau khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê ở nước ta, nhà Minh sai Mao Bá Ôn đem quân sang hỏi tội. Mao Bá Ôn dừng quân nơi cửa ải, đưa ra một bài thơ (xem trong mục tác giả Mao Bá Ôn) gửi quan quân nhà Mạc với ý ví người An Nam như những thân bèo không đoàn kết. Đây là bài thơ trạng nguyên Giáp Hải hoạ trả lời thư.

Tuy nhiên, theo Thạch Can trong “Ai là tác giả bài hoạ thơ Vịnh bèo” (báo Tổ quốc, 10-1993) căn cứ vào tư liệu ghi trong cuốn gia phả hiện còn được bảo tồn tại dòng họ Ngô Đông Đồ này thì bài thơ hoạ này là của trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu. (Tạp chí Hán Nôm, số 1(6), 1989).

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Hoà thượng Trí Thủ

Chen nhau vảy gấm khó luồn kim
Cành rễ liền nhau chẳng kể thân
Tranh với bóng mây trên mặt nước
Hé dung ánh nhật lọt dòng tâm
Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ
Muôn trận phong ba cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lữ Vọng khó mà tìm.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lâm Giang

Dầy như vẩy gấm khó luồn kim
Mang giáp liền thân, há phải kèm
Che kín mặt hồ mây chẳng lọt
Nắng tràn soi rọi, sóng nào chen
Muôn trùng sóng vỗ, khôn phá nổi
Bão trận mưa dông, cũng chẳng chìm
Không ít cá rồng nương dưới ấy
Lưỡi câu Lã Vọng biết đâu tìm


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Phong

Mau ken vẩy gấm khó luồng châm
Cành rễ liền nhau mọc rất thâm
Tranh với bóng mây trên thuỷ điện
Há dung vầng nhật lọt ba tâm
Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ
Muôn trận phong xuy cũng chẳng trầm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lã Vọng biết đâu tầm


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Dầy tựa gấm đan kim khó khâu,
Thân liền với rễ chẳng cần sâu.
Tranh che mặt nước cùng mây trắng,
Chẳng để mặt trời rọi xuống đâu.
Sóng vỗ ngàn trùng khôn phá nổi,
Bão dông muôn trận cũng không chìm.
Rồng nương cá núp còn nơi đấy,
Lã Vọng lưỡi câu biết tìm đâu.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Vẩy gấm hàng hàng kim khó lọt,
Lá đan rễ bện biết sâu nông?
Mây luôn nhường chỗ trên mặt nước
Nắng khó chen làn xuống đáy sông
Chẳng dập dù va ngàn sóng dữ
Không chìm dẫu hứng vạn cuồng phong
Cá rồng tàng ẩn khôn lường hết
Khương Thượng câu thời chỉ uổng công.

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Văn Hạc

Vầỷ gấm ken đầy chẳng lọt kim,
Lá liền rễ mọc, kệ nông mèm!
Mây bạc không cho soi thuỷ điện,
Anh hồng đâu để dọi ba tâm?
Sóng dồi ngàn lớp khôn xô vỡ,
Gió dập muôn cơn khó đánh chìm.
Rồng cá ít nhiều nương ở đó,
Cần câu Lã Vọng hết mong tìm!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời