Bình luận nhanh 1

Chi Nguyen11/09/2025 10:16
Gió vờn bãi cỏ mơn man. Nắng tà chênh chếch, soi ngang mặt hồ. Tiêu Tương sóng nước lô xô. Non Tiên chèo tới, mấp mô vách ngàn.

同燕公泛洞庭

風光淅淅草中飄,
日影熒熒水上遙。
幸奉瀟湘雲壑意,
山傍容與動仙橈。

 

Đồng Yên công phiếm Động Đình

Phong quang tích tích thảo trung phiêu,
Nhật ảnh huỳnh huỳnh thuỷ thượng dao.
Hạnh phụng Tiêu Tương[1] vân hác ý,
Sơn bàng dung dữ động tiên kiêu.

 

Dịch nghĩa

Trời trong, gió nhẹ thổi vi vu vào bờ cỏ.
Nắng chói chang trên mặt nước ở xa xa.
Được hân hạnh hầu ngài, hưởng thú vui mây nước Tiêu Tương,
Bên núi an nhàn đẩy mái chèo tiên.


Yên công tức Trương Duyệt, thi nhân nổi tiếng thời Sơ Đường, để lại 253 bài thơ, quan làm tới trung thư lệnh, tước phong tới Yên quốc công. Bài này làm trong thời gian ông còn làm thứ sử Nhạc Châu, và tác giả Doãn Mậu làm tòng sự dưới quyền ông.

Hồ Động Đình ( 28.834,112.681): Động Đình 洞庭 là hồ lớn, nông ở phía đông bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Hồ thông với sông Trường Giang tại thành Nhạc Dương và như một cái túi giúp điều hoà lượng nước sông Trường Giang. Kích thước của hồ phụ thuộc vào mùa, nhưng về tổng thể nó là một trong 4 hồ nước ngọt có diện tích bề mặt lớn nhất tại Trung Quốc, cùng các hồ như Bà Dương, Hô Luân và Thái Hồ. Tên các tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam được đặt căn cứ theo vị trí của 2 tỉnh này so với hồ. Hồ cũng được bốn con sông đổ nước vào là Tương giang 湘江, Tư giang 資江, Nguyên giang 沅江 và Lễ thuỷ 澧水 thuộc các cửa Tùng Tư, Thái Bình, Ngẫu Trì, Điều Huyền. Ngoài ra, sông Tiêu 瀟 đổ vào sông Tương ở bãi Tiêu Tương gần Trường Sa trước khi sông Tương đổ vào hồ. Tàu thuyền đi biển có thể đi từ sông Tương tới Trường Sa. Thời Hán, Động Đình là hồ lớn nhất Trung Quốc, nhưng ngày nay là hồ lớn thứ hai sau hồ Bà Dương 鄱陽, do nhiều phần đã bị biến thành đất trồng trọt. Xung quanh hồ có nhiều cảnh đẹp, là một danh thắng lớn của Trung Quốc.

Hồ Động Đình nhìn từ phía lầu Nhạc Dương
Hình: Hồ Động Đình nhìn từ phía lầu Nhạc Dương



Chú thích:
[1]
Tiêu Tương ( 26.253,111.607): Là nơi hợp lưu của hai con sông Tiêu thuỷ 瀟水 và Tương thuỷ 湘水 (hay Tương giang 湘江) để chảy vào hồ Động Đình, và cũng là tên vùng đất ở đây, thời xưa thuộc nước Sở, nay là trấn Tiêu Tương ở địa phận huyện Linh Lăng 零陵, tỉnh Hồ Nam 湖南, Trung Quốc. Sông Tiêu có tên khác là Doanh thuỷ 營水, phát nguyên từ núi Cửu Nghi, chảy đến Vĩnh Châu thì hợp lưu với sông Tương. Sông Tương phát nguyên ở huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây. Ở đây phong cảnh rất thê lương buồn bã, và có nhiều cảnh đẹp, thường được dùng làm đề tài cho thơ và hoạ, như Tiêu Tương bát cảnh 瀟湘八景.

Nơi đây thường là chỗ chia tay để mỗi người đi mỗi ngả, cho nên văn thơ thường dùng trong cảnh biệt ly. Nơi bờ sông Tương xưa kia hai bà vợ ông Thuấn đứng khóc chồng, nước mắt hoà máu rơi vào trúc thành những đốm thâm. Cho nên có chữ “giọt Tương” là giọt nước mắt, “khúc Tiêu Tương” là khúc đàn buồn về nỗi ly biệt.

Khúc sông Tiêu Tương liền với sông Mịch La là nơi Khuất Nguyên đã trầm mình.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trời trong, gió vi vu bờ cỏ
Nắng chiếu trên nước ở xa xa
Tiêu Tương mây nước bao la
An nhàn đẩy mái chèo ngà bên non


tửu tận tình do tại
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Trời thanh gió nhẹ cỏ lăn tăn
Mặt nước hồ xa ánh nắng hồng
Mây nước hầu người may có dịp
Bên non nhè nhẹ mái chèo tiên


15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nam Thắng

Trời trong bờ cỏ gió lùa
Chói chang hồ rộng sóng đùa xa xa
Đẩy chèo bên núi thuyền qua
Tiêu Tương mây nước la đà thú vui


15.00
Trả lời