鬼門關

北人曾號鬼門關,
已識安臨受後顏。
瘴氣鳶飛高亦死,
獸心城隱避猶難。
南溟別佔稱臣輔,
越海從前願據安。
題此恭蒙天眼顧,
勿求廣界必無還。

 

Quỷ Môn quan

Bắc nhân tằng hiệu Quỷ Môn quan,
Dĩ thức an lâm thụ hậu nhan.
Chướng khí diên phi cao diệc tử,
Thú tâm thành ẩn tị do nan.
Nam minh biệt chiếm xưng thần phụ,
Việt hải tòng tiền nguyện cứ an.
Đề thử cung mông thiên nhãn cố,
Vật cầu quảng giới tất vô hoàn.


Quỷ Môn quan thuộc Lạng Sơn, giáp Trung Quốc. Người Trung Quốc xưa qua đây nói “Quỷ Môn quan thập nhân khứ, nhất nhân hoàn” (Ải Quỷ Môn, mười người đi, một người trở về) nói về sự hiểm yếu của nơi này.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Hoàng Giang Phú

Người phương Bắc gọi đây cửa quỷ
Biết vậy còn đến thí mạng sao
Chim cao, chướng khí lăn nhào
Rợ hung, thành ẩn thế nào cho yên
Trời Nam riêng xưng thần nộp cống
Đất Việt này mong sống thái bình
Chữ đề, ngoảnh mặt cho tinh
Chớ tham mở đất, bỏ mình nơi đây

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Người Bắc phương từng gọi Quỷ môn,
Biết rồi còn đến mạng khó còn.
Diều cao, chướng khí lăn nhào chết,
Tâm thú, ẩn thành khó tránh xong.
Đất Việt này mong yên ổn sống
Trời Nam riêng chiếm xưng thần nương.
Chữ đề ngoảnh mặt cho tường rõ,
Chớ cầu mở đất, tất thân vong.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời