14.00
4 bài trả lời: 4 bản dịch

Đăng bởi hongha83 vào 29/03/2008 23:17, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi hongha83 vào 01/10/2016 07:11

Piosenka o końcu świata

W dzień końca świata
Pszczoła krąży nad kwiatem nasturcji,
Rybak naprawia błyszczącą sieć.
Skaczą w morzu wesołe delfiny,
Młode wróble czepiają się rynny
I wąż ma złotą skórę, jak powinien mieć.
W dzień końca świata
Kobiety idą polem pod parasolkami,
Pijak zasypia na brzegu trawnika,
Nawołują na ulicy sprzedawcy warzywa
I łódka z żółtym żaglem do wyspy podpływa,
Dźwięk skrzypiec w powietrzu trwa
I noc gwiaździstą odmyka.

A którzy czekali błyskawic i gromów,
Są zawiedzeni.
A którzy czekali znaków i archanielskich trąb,
Nie wierzą, że staje się już.
Dopóki słońce i księżyc są w górze,
Dopóki trzmiel nawiedza różę,
Dopóki dzieci różowe się rodzą,
Nikt nie wierzy, że staje się już.

Tylko siwy staruszek, który byłby prorokiem,
Ale nie jest prorokiem, bo ma inne zajęcie,
Powiada przewiązując pomidory:
Innego końca świata nie będzie,
Innego końca świata nie będzie.


Warsaw, 1944

Trong thời gian 1939-1945, Đức Quốc Xã đang chiếm đóng và tàn phá đất nước Ba Lan.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Bá Thự

Vào ngày tận thế
Ong mật lượn vòng trên hoa sen cạn
Ngư phủ vá tấm lưới chài óng ánh
Cá heo vui nhảy trên biển xanh
Chim sẻ non uống nước máng mát lành
Và rắn có da vàng như xưa nay vẫn vậy

Vào ngày tận thế
Phụ nữ đội ô đi trên cánh đồng
Gã say ngủ lăn quay ngay bên vạt cỏ
Những người bán rau rao hàng trên phố
Chiếc thuyền buồm vàng bơi ra đảo nhỏ
Tiếng vĩ cầm ngân vang trong không gian bao la
Và tan vào đêm trời đầy sao

Những kẻ đợi chờ sấm chớp
Có gì đâu mà nơm nớp
Những kẻ chờ tín hiệu và kèn báo của thống lãnh nhà trời
Họ không tin chuyện xảy ra rồi
Khi mặt trời và mặt trăng đang hiện trên cao
Khi ong mật đang đến với hoa hồng
Khi trẻ con đỏ hỏn đang chào đời
Chẳng kẻ nào tin, chuyện xảy ra rồi

Chỉ ông già tóc bạc khả dĩ là nhà tiên tri
Nhưng không phải vậy, lão có việc để thực thi
Tay buộc chùm cà chua lão phán:
Sẽ chẳng có ngày tận thế khác đâu
Sẽ chẳng có ngày tận thế khác đâu

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm

Trong ngày tận thế
Một con ong lượn quanh cây cỏ ba lá,
Một ngư phủ vá lại chiếc lưới lấp lánh.
Những con cá heo hân hoan nhảy trên mặt biển,
Những chú sẻ non bám vào máng xối
Và con rắn thì da óng vàng như trước giờ vẫn vậy.

Trong ngày tận thế
Những người đàn bà đi bộ trên những cánh đồng dưới những chiếc dù,
Một gã say ngái ngủ bên rìa bãi cỏ,
Những người bán rau quả rong la hét trên đường
Và một chiếc thuyền buồm vàng đến gần hòn đảo,
Tiếng vĩ cầm ngân dài trong không khí
Rồi dẫn tới một đêm đầy sao.

Và những kẻ chờ đợi sấm chớp
Thì thất vọng.
Và những kẻ mong đợi các dấu hiệu và tiếng kèn thiên sứ
Không thể tin là nó đang diễn ra.
Miễn là mặt trời và mặt trăng vẫn còn ở trên,
Miễn là chú ong viếng thăm một đoá hoa hồng,
Miễn là những bông hồng sơ sinh được sinh ra
Chẳng ai tin được là nó đang diễn ra cả.

Chỉ có một ông lão đầu bạc trắng, người sẽ là một vị tiên tri
Tuy bây giờ chưa phải, bởi ông quá bận rộn,
Lặp đi lặp lại trong lúc buộc lại những trái cà chua:
Sẽ chẳng có ngày tận thế nào nữa cả,
Sẽ chẳng có ngày tận thế nào nữa cả.


Dịch từ bản dịch của Anthony Milosz.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anthony Milosz

A song on the end of the world (tiếng Anh)

On the day the world ends
A bee circles a clover,
A fisherman mends a glimmering net.
Happy porpoises jump in the sea,
By the rainspout young sparrows are playing
And the snake is gold-skinned as it should always be.

On the day the world ends
Women walk through the fields under their umbrellas,
A drunkard grows sleepy at the edge of a lawn,
Vegetable peddlers shout in the street
And a yellow-sailed boat comes nearer the island,
The voice of a violin lasts in the air
And leads into a starry night.

And those who expected lightning and thunder
Are disappointed.
And those who expected signs and archangels’ trumps
Do not believe it is happening now.
As long as the sun and the moon are above,
As long as the bumblebee visits a rose,
As long as rosy infants are born
No one believes it is happening now.

Only a white-haired old man, who would be a prophet
Yet is not a prophet, for he’s much too busy,
Repeats while he binds his tomatoes:
There will be no other end of the world,
There will be no other end of the world.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Quỳnh Hương

Ngày tận thế đến trên thế giới
Khi ong vù vù bay trên những bụi hoa,
Ngư phủ ngồi bện sợi thừng thô
Lũ cá heo nô đùa trên sóng
Tha đất sét kiên trì, én về xây tổ
Và gốc cây phải mục dần ruỗng nát bên đường
Ngày tận thế đến trên thế giới
Khi phụ nữ che ô đi trên cánh đồng
Cửu vạn chuyển hàng đẫm mồ hôi mỏi rời chân
Quán ven đường chào mời mua thuốc lá
Con thuyền vàng ghếch mũi lên bờ đá
Như mã vĩ gác mặt gương sông bạc
Mở cửa đêm một giải ngân hà.
Những người chờ sấm chớp đã nhầm to
Những người chờ điềm báo và nghe tiếng hát thiên thần
Thì không tin chuyện đó đã xảy ra.
Ai mà tin nổi khi mặt trời vẫn lặn sau nhà
Chú ong đất vù vù giận dữ
Những bà bầu vẫn mang con trong bụng,
Ai mà tin nổi chuyện đó đã xảy ra.
Riêng có một lão nông tóc bạc, để trở thành tiên tri thì thừa sức
Nhưng đã không thành vì chẳng muốn làm mọi người chán ngắt,
Sẽ nói, khi thu hoạch cà chua:
Chẳng có thêm ngày tận thế nữa đâu,
Không có thêm ngày tận thế nữa đâu mà.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời